Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016
Sự phát triển từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
8
Chương 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ THÂN DÂN VÀ DÂN CHỦ;
SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG THÂN DÂN CỦA NGUYỄN TRÃI
VÀ TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1. Khái luận chung về thân dân và dân chủ
Thân dân và dân chủ là hai khái niệm khác nhau, biểu hiện tính chất,
mức độ khác nhau trong hệ tư tưởng chính trị vì dân. Thân dân và dân chủ
đều là những giá trị cơ bản của văn hoá chính trị Việt Nam truyền thống, là
những hằng số văn hóa của nhân loa ̣i . Chiều sâu của giá trị tư tưởng này
chính là ở chỗ, nó đề cao vai trò và những khả năng sáng tạo đích thực của
con người, là thước đo cho sự tiến bộ của một xã hội.
Để làm rõ hai khái niệm này, cần phải thấy được những điểm giống và
khác nhau giữa chúng.
1.1.1. Khái niệm thân dân
Thân dân là một khái niệm có nguồn gốc từ Nho giáo: “Đại học chi đạo,
tại minh minh đức, tại thân dân".
Theo nghĩa gốc của từ, thân dân có nghĩa là gần dân. Ta có thể hiểu
thân dân là đi vào đời sống của nhân dân, hiểu dân cần gì, muốn gì.
Mượn lời Khổng Tử, Hồ Chí Minh giải thích khái niệm “thân dân” theo
một cách hiểu mới: “Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân
dân lên trên hết. Nói một cách khác, tức là “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạc " (lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ).
Như vậy, thân dân là khái niệm có nguồn gốc từ Nho giáo. Thân dân có
thể được hiểu là thái độ gần dân, chăm lo đến lợi ích và đời sống nhân dân
của người lãnh đạo, cầm quyền.
1.1.2. Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII - VI trước Công
nguyên. Theo nhà triết học Hi Lạp cổ đại Aristote (384 - 322 trước Công
9
nguyên) thì Solon (khoảng 638 - 559 trước Công nguyên) là người đầu tiên
đặt nền tảng cho khái niệm dân chủ. Solon cho rằng, muốn xây dựng một nhà
nước trên cơ sở một nền dân chủ phải thông qua tuyển cử và hòa nhập sức
mạnh với pháp luật.
Dân chủ hiểu theo từ nguyên, bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ đại:
“Demokratia”. Demokratia được ghép từ hai từ, Demos: là nhân dân; Kratia:
là chính quyền hay quyền lực. Như vậy, theo nguyên nghĩa của nó, dân chủ có
nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Nó nói lên rằng nhân dân là chủ thể của
quyền lực. Đến thế kỷ XVIII, người Anh đã dựa vào ngôn ngữ Hi Lạp cổ để đưa ra
thuật ngữ “democracy”, có nghĩa là “chính thể dân chủ”, một trong những hình thức
chính quyền với đặc trưng là: chính quyền nhà nước phải thừa nhận quyền tự do và
bình đẳng của công dân.
Từ “dân chủ” xuất hiện vào cuối thời kỳ cộng sản nguyên thủy, đầu
chiếm hữu nô lệ, được ghi bằng tiếng Hy Lạp với nghĩa quyền lực thuộc về
nhân dân. Nhưng nhân dân là ai? Nhân dân là số nhiều, hay số ít sẽ ảnh
hưởng và quy định phạm vi, mức độ của nền dân chủ. Theo lý luận, “nhân
dân” thường được hiểu là số đông, là đại đa số quần chúng lao động. Tuy
nhiên, trong thực tế lịch sử, trong các xã hội có mâu thuẫn đối kháng về giai
cấp, nhân dân lại thường là số ít, đó là những người cầm quyền. Xã hội có
giai cấp, mặc dù địa vị pháp lý quyền lực thuộc về đa số, nhưng trên thực tế,
quyền lực lại chỉ nằm trong tay những kẻ có quyền, có tiền, những kẻ thống
trị xã hội. Hay nói cách khác, trong xã hội ấy, quyền lực chỉ thuộc về số ít
những kẻ bóc lột. Ví dụ: Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ chiếm
tới 95% dân số, nhưng quyền lực không thuộc về họ. Họ chỉ đuợc xem là
“công cụ biết nói”. Trong khi đó, tầng lớp chủ nô, tăng lữ chỉ chiếm 5% dân
số lại là chủ thể của quyền lực. Trong xã hội phong kiến, nhân dân là đại đa
số, nhưng quyền lực lại không thuộc về họ mà chỉ tập trung trong tay một ông
vua, với quyền năng tối thượng. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quyền lực lại
10
thuộc về bộ phận những người có của, giai cấp tư sản - bộ phận chiếm số ít
trong xã hội. Theo sự phát triển của lịch sử xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ là
một chế độ dân chủ thực sự, quyền lực thuộc về nhân dân là số đông. Điều
này, chỉ thực hiện được khi giai cấp lãnh đạo xã hội thực hiện được sự thắng
lợi về kinh tế, chính trị làm cho nhân dân có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
một đời sống chính trị văn minh. Hay, ở Việt Nam, mục tiêu tổng quát của
Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản được cụ thể hóa là:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nếu không thực
hiện được những mục tiêu trên, thì xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ
là hình thức.
Dân chủ là một khái niệm bao quát nội dung rộng lớn. Người ta thường
tiếp cận dân chủ trên những bình diện sau:
+ Dân chủ là một phạm trù chính trị: Dân chủ biểu hiện như một chế độ
chính trị trong một xã hội có giai cấp. Ở phương diện này, tính chất của dân
chủ tùy thuộc vào chỗ quyền lực chính trị thuộc về giai cấp nào. Thực chất đó là
sự tập trung quyền lực vào tay giai cấp cầm quyền. Chính vì vậy, đã từng xuất
hiện dân chủ chủ nô bảo vệ quyền lực cho giai cấp chủ nô, dân chủ tư sản bảo vệ
quyền lực cho giai cấp tư sản, dân chủ vô sản - dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo vệ
quyền lực cho giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Theo cách tiếp cận này, dân chủ là một phạm trù lịch sử: theo nghĩa dân
chủ xuất hiện cùng với giai cấp và Nhà nước (đó là dân chủ chính trị) và dân
chủ chính trị sẽ không tồn tại mãi mãi. Dân chủ được hiểu là một chế độ nhà
nước, một hình thái nhà nước, một chế độ xã hội. Khi đó, tư tưởng về dân chủ,
ý thức về dân chủ phải được đẩy đến hành vi dân chủ. Nó được thể hiện qua
tổ chức bộ máy Nhà nước, trong khuôn khổ một thể chế nhất định, trước hết
là thể chế chính trị pháp lý, trong đó thừa nhận về mặt pháp luật những quyền
tự do, dân chủ, bình đẳng của công dân. Ví dụ: pháp luật thừa nhận các quyền
tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do ứng cử, bầu cử…Dân chủ được cụ thể
11
hóa thành các cơ chế để thực thi trong đời sống. Dân chủ được quy định thành
nghĩa vụ của công dân với nhà nước và trách nhiệm của nhà nước với công
dân. Với cách tiếp cận dân chủ theo phạm trù chính trị, phạm trù lịch sử,
thì dân chủ tồn tại với tư cách là một chế độ, một nền dân chủ được biểu
hiện thông qua các đặc điểm rõ ràng như: nội dung của dân chủ được cụ thể
hóa qua những quy định chính thống của hiến pháp và pháp luật; nội dung
của dân chủ được thực thi bằng sức mạnh bộ máy Nhà nước; nó được
cưỡng chế, áp đặt thực hiện với toàn xã hội bằng chính sức mạnh và quyền
uy của bộ máy đó.
+ Dân chủ là một giá trị văn hóa: Dân chủ chỉ trạng thái, tính chất và
mức độ giải phóng con người, là khái niệm biểu đạt thành quả đấu tranh đòi
giải phóng của nhân dân lao động chống áp bức, bóc lột, đòi quyền tự do,
quyền làm chủ của mình. Đây là cách tiếp cận dân chủ dưới góc độ giá trị,
biểu hiện giá trị nhân văn của xã hội, của dân chủ. Dân chủ với ý nghĩa là giá
trị văn hóa thì vẫn còn tồn tại mãi mãi. Dưới góc độ này, dân chủ là phạm trù
vĩnh viễn.
+ Dân chủ là một nguyên tắc, phương thức hoạt động của một tổ chức
chính trị - xã hội: Nguyên tắc, phương thức này bao hàm một số nội dung,
như: cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số…Ví dụ: nguyên tắc
tập trung dân chủ trong tổ chức và trong sinh hoạt đảng, ở đây là Đảng Cộng sản.
Tập trung dân chủ (mà Hồ Chí Minh thường gọi là: dân chủ tập trung) còn là
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước; các tổ chức chính trị và chính trị xã hội ở nước ta.
Các hướng tiếp cận trên làm phong phú nội hàm khái niệm dân chủ, tùy
từng bối cảnh cụ thể mà người ta nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh
khác tương ứng với các cách tiếp cận đó. Ta cần thấy rõ tính liên kết, xâu
chuỗi của các các quan niệm này trong khái niệm lý luận về dân chủ và trong
thực tiễn dân chủ.
12
Khi vẫn tồn tại nhà nước, dân chủ thường được tiếp cận là một phạm
trù chính trị, được xem xét với tư cách là một nền chính trị, một chế độ chính
trị. Với tư cách là một chế độ chính trị, lịch sử phát triển chế độ dân chủ là lịch sử
lâu dài, quanh co và phức tạp. Cho đến nay, tương ứng với các hình thái kinh
tế - xã hội, loài người đã và đang thực hiện các chế độ dân chủ sau: Dân chủ
nguyên thủy; Dân chủ chủ nô; Dân chủ tư sản; Dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, dân chủ xuất hiện từ cơ sở chín muồi của kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và luôn phát triển trên cơ sở các điều kiện về kinh tế, chính trị,
xã hội. Mỗi bước ngoặt trong tiến trình phát triển kinh tế, xã hội đều dẫn đến
sự phát triển tương ứng của tiến trình dân chủ. Dân chủ chính là thành quả đấu
tranh của nhân dân lao động đối với giai cấp bóc lột, để tự giải phóng bản thân mình
và khẳng định vị thế, vai trò của người chủ trong xã hội.
Thân dân và dân chủ là những khái niệm tư tưởng vì dân, cùng ghi nhận
quyền lợi của nhân dân. Nó đều thể hiện thái độ gần gũi, trân trọng dân, bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của dân. Tuy vậy, hai khái niệm này thể hiện những
nội hàm khác nhau:
Thân dân với ý nghĩa là gần dân thì khái niệm này thường được sử dụng
trong xã hội phong kiến, khi chế độ dân chủ không tồn tại trên thực tế cho đa
số người dân. Thời kỳ này, dân chủ chỉ xuất hiện dưới dạng là một giá trị tư
tưởng, không có thể chế, thiết chế để thực hiện. Vì vậy, tư tưởng vì dân của
một số nhà tư tưởng thể hiện dưới dạng tư tưởng gần gũi, thấu hiểu, yêu
thương, trọng dân, kính dân, đó là những biểu hiện của tư tưởng thân dân. Nó
diễn tả thái độ của những người làm chủ của dân. Thân dân thể hiện rõ thái
độ tình cảm của những người cầm quyền có lòng yêu dân, thương dân, nhưng
vẫn bao chứa “tính chất trên - dưới” trong một xã hội đẳng cấp mà người dân
chưa được làm chủ. Trong chế độ phong kiến, nhân dân chỉ là những thần dân
dưới quyền uy tối thượng của vua. Chỉ trong xã hội (như xã hội tư sản chẳng
hạn) tồn tại phạm trù công dân thì dân chủ mới xuất hiện.
13
Xét dước góc độ quyền lực, mức độ quyền của người dân trong tư tưởng
thân dân và dân chủ cũng khác nhau. Thân dân thì sự làm chủ của người dân
mới chỉ được ghi nhận ở mức độ “dân bản” (dân là gốc, là nền tảng của xã
hội), chứ chưa đạt trình độ “dân chủ”, quyền làm chủ xã hội của người dân
chưa khẳng định. Trong các hình thái kinh tế xã hội nô lệ, tư bản và chủ nghĩa
xã hội, khi dân chủ được xác lập với tư cách là một chế độ xã hội thì khái
niệm dân chủ mới được sử dụng. Như vậy, thân dân và dân chủ là hai khái
niệm được sử dụng ở những chế độ xã hội khác nhau, để chỉ phạm vi và mức
độ làm chủ không giống nhau của người dân.
1.2. Sự hình thành tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi và tư tưởng
dân chủ của Hồ Chí Minh
Xét về nguồn gốc, bất cứ tư tưởng nào ra đời cũng là một quá trình tác
động biện chứng giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Nó ra
đời từ những chất liệu tư tưởng có sẵn trước đó, phản ánh nhu cầu của thực
tiễn xã hội đương thời và mang dấu ấn cá nhân của người sáng lập. Tư tưởng
thân dân của Nguyễn Trãi và tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh cũng vậy.
1.2.1. Sự hình thành tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi.
Tư tưởng nào cũng ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, thể hiện bản
lĩnh, trí tuệ cá nhân và bóng dáng của thời đại. Tư tưởng của Nguyễn Trãi nói
chung và tư tưởng thân dân nói riêng ra đời trong bối cảnh của thời kỳ Đại Việt.
1.2.1.1. Thời đại Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất năm 1442, sống và hoạt động trong thời
kỳ đầy biến động, đầy hoạn nạn và âu lo của lịch sử Việt Nam. Về mặt chính trị
- xã hội, Nguyễn Trãi đã sống 20 năm cuối triều Trần, thời kỳ mà quyền lực
truyền thống đã bị sa đoạ và gần như đã nằm trong tay khống chế của Lê Quý Ly;
7 năm dưới triều Hồ, một quyền lực đang xây dựng dở dang; 20 năm có thời
thuộc Minh và chống Minh thuộc, một thời kỳ đầy bão táp của bạo lực bành
trướng và đô hộ Trung Quốc, đầy bão táp của bạo lực quần chúng, của toàn thể
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét