Thứ Ba, 29 tháng 3, 2016
Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên Trường Trung cấp Giao thông Vận tải Miền Bắc
Qua đó ta có thể hiểu đội ngũ của một tổ chức cũng chính là nguồn
nhân lực của tổ chức đó. Đó là những ngƣời có chung mục đích, lợi ích và
ràng buộc với nhau bằng trách nhiệm pháp lý, đó là sự gắn kết những cá thể
với nhau, hoạt động thông qua sự phân công và hợp tác lao động.
- Đội ngũ giáo viên: là tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy,
giáo dục trong các cơ sở giáo dục
Đội ngũ giáo viên nằm trong đội ngũ nhà giáo thuộc ngành giáo dục –
đào tạo. Do yêu cầu nhiệm vụ nên đội ngũ giáo viên có nhiều chủng loại:
Đội ngũ giáo viên tham gia công tác quản lý nhà trƣờng, tham mƣu cho
cấp ủy, lãnh đạo, ngành giáo dục – đào tạo hoạch định chính sách vĩ mô về
giáo dục – đào tạo nghề nghiệp và thực thi chính sách giáo dục – đào tạo.
Đội ngũ giáo viên tham gia công tác quản lý khoa, phòng, đơn vị thực
nghiệm, thực hành, tham mƣu cho lãnh đạo nhà trƣờng, tham gia quản lý hoạt
động chuyên môn, nâng cao chất lƣợng chuyên môn, thực hành, thực tập kỹ
năng nghề nghiệp, biên soạn giáo trình, giáo án, đề tài nghiên cứu khoa học,
quản lý giáo viên, học sinh trong đơn vị theo thẩm quyền, theo phân cấp quản
lý.
Đội ngũ giáo viên cơ hữu theo chuyên ngành thuộc biên chế của khoa,
phòng, đơn vị thực nghiệm, thực hành.
1.2.2. Phát triển và phát triển đội ngũ
1.2.2.1. Phát triển
Theo quan điểm triết học: Khái niệm phát triển là khái niệm chỉ sự vận
động theo chiều hƣớng tiến lên, cái mới, cái tiến bộ ra đời thay thế cái cũ, cái
lạc hậu.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: Phát triển là "biến đổi hoặc làm
cho nó biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp hay rộng, thấp đến cao, đơn giản đến
phức tạp" [31, Tr. 759]
Phát triển trong giáo dục đƣợc hiểu là quá trình học tập nhằm mở ra
cho những cá nhân những công việc mới dựa trên những định hƣớng tƣơng lai
11
của tổ chức. Từ những cách tiếp cận trên thì mọi sự vật, hiện tƣợng, con
ngƣời, xã hội hoặc là biến đổi để tăng số lƣợng, thay đổi nâng lên về chất
lƣợng hoặc dƣới tác động của bên ngoài làm cho biến đổi gia tăng đều
đƣợc coi là sự "phát triển". Con ngƣời là yếu tố hợp thành của tổ chức, quản
lý một tổ chức chủ yếu là quản lý con ngƣời, trong nhà trƣờng ĐNGVlà lực
lƣợng chủ yếu giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo.
Vì vậy phát triển ĐNGV là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng hàng đầu trong
chiến lƣợc phát triển nhà trƣờng.
1.2.2.2. Phát triển đội ngũ
Theo quan điểm phát triển đội ngũ của ngành giáo dục: "Phát triển đội
ngũ là làm sao để có một lực lƣợng những ngƣời làm giáo dục đủ về số lƣợng
và đảm bảo chất lƣợng (nhân cách) đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nƣớc nói chung và yêu cầu phát triển giáo dục nói riêng".
Phát triển đội ngũ là tổng thể các phƣơng pháp, biện pháp, cách thức,
chính sách để hoàn thiện và nâng cao chất lƣợng đội ngũ (đủ về số lƣợng, phù
hợp về cơ cấu, có trình độ chuyên môn và năng lực nghề nghiệp, phẩm chất
tốt) đáp ứng yêu cầu phát triển của tổ chức.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng để phát triển giáo dục là phát triển
nguồn nhân lực. Trong phát triển nguồn nhân lực thì giáo viên đóng vai trò trung
tâm, là nhân tố quan trọng quyết định chất lƣơng đào tạo của nhà trƣờng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc" ; từ xa xƣa Khổng Tử đã đúc kết cho hậu thế, cấu trúc nhân cách con
ngƣời bao gồm: "Nhân, nghĩa, trí, dũng mà cốt lõi của nó là "Tài" và "Đức".
Có tài mà không có không có đức sẽ trở thành vô dụng ngƣợc lại có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó. Sự hài hòa giữa đức và tài chính là đặc
điểm có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Hồ Chí Minh nêu lên phẩm chất đạo đức cần
có của con ngƣời phải là "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tƣ". Trong 4
thành phần đó "Cần" có nghĩa là siêng năng trong lao động, trong công việc
đƣợc phân công, biết khuyến khích ngƣời khác làm tốt công việc, "kiệm" là
12
không lãng phí của cải và thời gian của nhân dân, "chính" là việc đúng dù
nhỏ cũng phải làm, việc sai dù nhỏ cũng phải tránh; "liêm" là không tham ô,
luôn luôn giữ gìn của cải của công và của nhân dân.
Nhƣ vậy, phẩm chất nhân cách là những cấu trúc tâm lý tiềm ẩn mang
chức năng định hƣớng, chỉ đạo hoạt động của con ngƣời trong các quan hệ
nhất định. Phẩm chất nhân cách đƣợc hình thành, phát triển và hoàn thiện, bộc
lộ đầy đủ nhất thông qua hoạt động của con ngƣời.
Từ quan điểm của Hồ Chí Minh cho ta thấy rằng: Nhân cách của con
ngƣời nói chung, đội ngũ giáo viên nói riêng gồm 2 mặt "phẩm chất" và
"năng lực", 2 mặt này nó biểu hiện ở mọi lúc, mọi nơi trong quá trình dạy học
mà thể hiện rõ nét nhất là năng lực chuyên môn, khả năng điều khiển trong
phạm vi trƣờng học, uy tín trƣớc tập thể sƣ phạm, khả năng ứng biến trong
các tình huống sƣ phạm xã hội, trong đó vấn đề tổ chức thực hiện nhiệm vụ sẽ
sáng tỏ đƣợc năng lực ngƣời giáo viên. Bên cạnh đó ngƣời giáo viên còn phải
có phẩm chất về chính trị, tƣ cách đạo đức, tác phong sƣ phạm trƣớc tập thể
giáo viên, học sinh, phụ huynh và các lực lƣợng giáo dục khác ngoài nhà
trƣờng.
Công tác phát triển ĐNGV nhà trƣờng phải nhằm vào những mục tiêu cơ
bản là:
1. Chăm lo xây dựng ĐNGV để có đủ số lƣợng, đồng bộ về cơ cấu, loại
hình, vững vàng về trình độ, có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức và
thái độ nghề nghiệp tốt, tận tâm tận lực với nghề; đảm bảo chất lƣợng về mọi
mặt để ĐNGV thực hiện tốt nhất, có hiệu quả nhất chƣơng trình, kế hoạch đào
tạo và những mục tiêu chung của nhà trƣờng.
2. Phải làm cho ĐNGV luôn có đủ điều kiện, có khả năng sáng tạo
trong việc thực hiện tốt nhất những mục tiêu của nhà trƣờng, đồng thời tìm
thấy lợi ích cá nhân trong mục tiêu phát triển của tổ chức; phát triển ĐNGV là
phải làm tốt và phải tạo ra sự gắn bó, kết hợp chặt chẽ giữa công tác quy
hoạch, kế hoạch tuyển chọn, sử dụng, đào tạo, đào tạo lại, bồi dƣỡng và tạo
13
môi trƣờng thuận lợi cho ĐNGV phát triển. Phát triển ĐNGV bao quát tất cả
những gì ngƣời GV có thể trau dồi và phát triển để đạt đƣợc các mục tiêu của
bản thân và của nhàtrƣờng. Phát triển ĐNGV có thể xem nhƣ một quá trình
liên tục nhằm hoàn thiện hay thay đổi thực trạng hiện tại của đội ngũ, làm
cho ĐNGV không ngừng phát triển về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu giảng dạy
tại nhà trƣờng trong xu hƣớng hội nhập, tiếp cận chuẩn nghề nghiệp GV của các
nƣớc tiên tiến. Phát triển ĐNGV đƣợc xem nhƣ một quá trình tích cực mang
tính hợp tác cao, trong đó ngƣời GV tự phát triển sẽ đóng một vài trò quan
trọng trong sự trƣởng thành về nghề nghiệp cũng nhƣ nhân cách của bản thân
trong sự hoà hợp cùng phát triển.
Xác định về phẩm chất, năng lực của đội ngũ giáo viên là cán bộ lãnh
đạo quản lý trường TCCN trong giai đoạn hiện nay:
- Giác ngộ về chính trị, nhiệt tình cách mạng, có trình độ lý luận trên cơ
sở chủ nghĩa Mác – Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh;
- Có trình độ chuyên môn vững vàng;
- Tận tụy trong công tác và sinh hoạt;
- Có sức khỏe tốt;
- Kiên trì giáo dục toàn diện;
- Biết chia sẻ với hoàn cảnh của đồng nghiệp và ngƣời học, hòa mình
với tập thể, tôn trọng, đối xử công bằng, hợp tình, hợp lý với mọi ngƣời.
Năng lực của đội ngũ giáo viên trường TCCN cần có là:
- Có trình độ văn hóa và chuyên môn tốt;
- Nắm vững chƣơng trình và phƣơng pháp giảng dạy, luôn tự học, tự
bồi dƣỡng, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề;
- Có năng lực phân tích các hoạt động giáo dục;
- Có khả năng nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm, làm công tác
chủ nhiệm, quản lý chuyên môn, hoạt động khoa, phòng và quản lý hành chính.
Nhƣ vậy, để xác định phẩm chất năng lực của đội ngũ giáo viên trƣờng
TCCN là tổng hợp những phẩm chất nhân cách tiêu biểu của con ngƣời nói
14
chung và nhà giáo nói riêng. Đây chính là cơ sở lý luận để tác giả điều tra làm
rõ thực trạng và đề xuất biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên Trƣờng Trung
cấp GTVT miền Bắc.
1.2.3. Quản lý
Quản lý là một dạng lao động xã hội, gắn liền và phát triển cùng với
lịch sử phát triển của loài ngƣời. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân
công, hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đạt hiệu
quả, năng suất cao hơn trong công việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp,
điều hành, kiểm tra, chỉnh lý. Đây là hoạt động để ngƣời lãnh đạo tập hợp sức
mạnh của các thành viên trong nhóm, trong tổ chức đạt đƣợc mục tiêu đề ra.
Nói về điều này, Các-Mác từng viết: “Một ngƣời chơi vĩ cầm riêng rẽ thì tự
điều khiển mình nhƣng một giàn nhạc thì cần có một nhạc trƣởng” [8,
tr.30].Tùy theo các cách tiếp cận mà có các quan niệm về quản lý, thông
thƣờng khi đƣa ra khái niệm quản lý các tác giả thƣờng gắn với một loại hình
quản lý cụ thể.
Quản lý là một trong những hoạt động cơ bản nhất của con ngƣời.
Ngay từ khi con ngƣời bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện mục tiêu mà
họ không thể đạt đƣợc với tƣ cách cá nhân riêng lẻ, thì cách quản lý đã là một
yếu tố cần thiết để đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân.
C. Marx đã từng coi việc xuất hiện của quản lý nhƣ một dạng đặc thù
của con ngƣời đƣợc gắn liền với sự quan tâm và hợp tác lao động, nhƣ là kết
quả tất yếu của sự chuyển nhiều quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập
với nhau thành một quá trình lao động xã hội đƣợc phối hợp lại. Điều đó
chứng tỏ rằng việc quản lý là thiết yếu trong mọi sự hợp tác có tổ chức cũng
nhƣ ở mọi cấp độ của tổ chức trong một cơ sở.
Vậy quản lý là gì? Cho đến nay có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về
khái niệm quản lý.
Theo Bùi Sỹ khái quát vấn đề quản lý giáo dục nghề nghiệp thành các
cách tiếp cận sau đây:
15
- Quản lý là đạt kết quả thông qua con ngƣời. Đây là một định nghĩa
muốn nhấn mạnh đến yếu tố con ngƣời trong quản lý.
- Quản lý là một tiến trình theo đó một tập thể hợp tác với nhau,
hƣớng các hoạt động của mình vào mục đích chung. Định nghĩa này muốn
nhấn mạnh đến tính phân công và hợp tác của lao động tập thể vì mục đích
chung.
- Quản lý là sự lãnh đạo hệ thống trên cơ sở hoạch định, tổ chức, phối
hợp, điều khiển và kiểm tra công việc nhằm đạt đƣợc các mục tiêu đã đề ra.
Định nghĩa này muốn nói đến sự lãnh đạo hệ thống bằng các chức năng quản
lý.
- Quản lý là những hoạt động có tính tổ chức dựa trên cơ sở nhận thức
và vận dụng các qui luật khách quan nhằm đƣa ra các quyết định và thực hiện
các quyết định đó. Đây là một định nghĩa đƣợc tiếp cận theo lý thuyết ra
quyết định, coi quyết định là mấu chốt của quản lý, đồng thời định nghĩa này
cũng nhấn mạnh tính khoa học của quản lý.
- Quản lý là một nghệ thuật: nghệ thuật khai thác các tiềm năng của sản
xuất kinh doanh. Định nghĩa này lại nghiêng sang tính nghệ thuật của thực
hành quản lý.
- Quản lý là những hoạt động bao gồm các mặt chính trị, kinh tế, xã
hội, pháp lý, tƣ tƣởng, tâm lý và các mặt khác với các cách kết hợp khác
nhau. Định nghĩa này muốn nói lên tính đa dạng và tác dụng tổng hợp của các
mặt hoạt động của quản lý.
- Quản lý là sự tác động có hƣớng của chủ thể quản lý đến đối tƣợng
quản lý nhằm thu đƣợc những kết quả tốt nhất với mục tiêu đã định trƣớc.
Định nghĩa này muốn nói tới tính chất hành động vì mục tiêu quản lý.
Từ các điểm chung của định nghĩa, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động
có tổ chức, có hƣớng đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt đƣợc mục
16
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét