Thứ Năm, 17 tháng 3, 2016
Đánh giá phương pháp giảng dạy hệ Đại học chính quy của giảng viên trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đánh giá thực trạng phương pháp giảng dạy hệ chính quy
tại Trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp giúp cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục & đào tạo của Nhà trường.
III. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
Giới hạn về đối tượng trong khảo sát nghiên cứu: Cán bộ giảng dạy
các khoa Nông học, Chăn nuôi thú y, Lâm nghiệp, Tài nguyên môi trường,
Khuyến nông, Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Khoa học cơ bản, Trung tâm
ngoại ngữ cho sinh viên hệ chính quy tại trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình tiến hành, đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu sau đây :
- Phương pháp khảo sát, chọn mẫu điều tra;
- Dùng bảng hỏi để thu thập thông tin, dữ liệu;
- Phân tích dữ liệu qua mô tả, tương quan;
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS, Excel và phần mềm Quest.
V. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi thứ nhất: Mức độ ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy hệ chính
quy của GV trường ĐHNLTN đối với việc học của sinh viên như thế nào?
Câu hỏi thứ hai: Phương pháp giảng dạy được quy định bởi những yếu tố
nào? Tại sao?
Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: Phương pháp giảng dạy hệ chính quy của GV trường
ĐHNLTN giúp học sinh học tốt và hiệu quả.
11
Giả thuyết thứ hai: Phương pháp giảng dạy được qui định bởi một số yếu
tố như: GV đại học, chương trình đào tạo, các nguồn vật chất hỗ trợ, các dịch
vụ hành chính và hệ thống quản lý chất lượng.
VI. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Chất lượng phương pháp giảng dạy của giảng viên là đối tượng chính để
nghiên cứu trong đề tài. Việc đánh giá này được thực hiện thông qua ý kiến
đánh giá của sinh viên và giảng viên về phương pháp giảng dạy môn học.
Khách thể nghiên cứu của đề tài là sinh viên, giảng viên giảng dạy hệ chính
quy (có lấy ý kiến đánh giá từ phía giảng viên)
VII. PHẠM VI KHẢO SÁT
Phạm vi khảo sát của đề tài ý kiến đánh giá của sinh viên hệ chính quy 8
khoa, các giảng viên và CBQL trong Nhà trường về phương pháp giảng dạy
của giảng viên thông qua chất lượng giảng dạy.
VIII. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn có kết cấu gồm 4 phần:
Phần mở đầu
Nội dung
Chương 1: Tổng quan về đánh giá phương pháp giảng dạy đại học
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tại trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên.
Kết luận
Tài liệu tham khảo và các phụ lục
12
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Trong 20 năm trở lại đây, việc sinh viên đánh giá giáo viên và môn học
đã trở thành phương pháp đánh giá giảng dạy phổ biến nhất trong các trường
đại học ở Hoa Kỳ. Theo Seldin (1993) gần như tất cả các trường đại học và
cao đẳng đã thu thập và sử dụng các mẫu biểu đánh giá giảng dạy của sinh
viên. Kết quả đánh giá của sinh viên được các giáo viên sử dụng rộng rãi để
nâng cao chất lượng giảng dạy và chất lượng của khóa học, đồng thời các nhà
quản lý sử dụng để ra các quyết định về nhân sự và chương trình. Đã có nhiều
nghiên cứu về “giá trị đánh giá của sinh viên”. Greenwald (1997) đã đúc kết
rằng giá trị các đánh giá của sinh viên về phương pháp giảng dạy đã được cân
nhắc và xem xét rất nghiêm ngặt khi định sử dụng trong những năm 1970.
Nhưng vào đầu những năm 1980, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng đánh
giá của sinh viên có giá trị và nên được sử dụng rộng rãi. Hiện nay hoạt động
này ngày càng được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới như là một nguồn
thông tin phản hồi về hiệu quả giảng dạy. Chúng được dùng làm công cụ cải
tiến giảng dạy và là bằng chứng để ra các quyết định định kỳ, là phương tiện
lựa chọn khóa học của sinh viên, là một tiêu chí về hiệu quả chương trình đào
tạo và tiếp tục là chủ đề cho các nghiên cứu khoa học.
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới
Hoạt động sinh viên đánh giá giảng viên là hoạt động từ lâu được quan
tâm trong các nền giáo dục tiên tiến như tại Mỹ, Châu Âu…Rất nhiều các
công trình nghiên cứu về hoạt động này đã được thực hiện tại các quốc gia
trên liên quan đến đặc trưng của hoạt động sinh viên đánh giá giảng viên, về
những ảnh hưởng của hoạt động sinh viên đánh giá giảng viên đến phương
pháp giảng dạy của giảng viên, các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đánh giá.
13
Về hình thức: Đánh giá giảng dạy của sinh viên hiện thường được sử dụng
dưới dạng các bảng hỏi có các mục với khoảng hơn ba chục câu hỏi về giáo
viên và khóa học mà sinh viên đang theo học. Đây có thể là những câu hỏi về
hiệu quả tổng thể, về giáo viên hoặc về khóa học. Ngoài ra, người ta sẽ yêu
cầu sinh viên trả lời những câu hỏi mở để họ có cơ hội trình bày chi tiết hơn
các suy nghĩ và cảm nhận của mình về khóa học, giáo viên và quá trình học
tập của mình. Centra (1993) và Braskamp và Ory (1994) xác định sáu yếu tố
thường được thấy trong các phiếu đánh giá của sinh viên: Lập kế hoạch và tổ
chức môn học, độ rõ ràng, các kỹ năng giao tiếp/ thông tin, quan hệ giữa
giảng viên và sinh viên, độ khó của môn học, khối lượng bài tập, xếp loại học
tập và các bài kiểm tra, sinh viên tự đánh giá quá trình học tập. Nhìn chung
các đơn vị tổ chức đánh giá sẽ dựa vào mục đích đánh giá để lựa chọn nội
dung cho phù hợp.
Về các đặc trưng của các đánh giá của sinh viên: Marsh (1987), Cashin
(1990) Health (1992), McInnis (1992), Ramsden (1992); Dilts et al,(1994),
Coe (1998) đã nghiên cứu các đặc trưng về đánh giá của sinh viên như độ giá
trị của các đánh giá của sinh viên về giảng viên, về độ tin cậy cũng như những
ảnh hưởng của hoạt động sinh viên đánh giá giảng viên đến chất lượng giảng
dạy của giảng viên. Độ tin cậy tương tự hay cao hơn đặc biệt thường thấy ở
các dạng phiếu được thiết kế công phu, có nghĩa là các dạng phiếu được xây
dựng với sự hỗ trợ của những người có kiến thức về đánh giá, đo lường trong
giáo dục.
Về các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đánh giá: Fredman (1977), Centra và
Gaubatz, 1998; Feldman, 1992a, 1992b, Lally và Myhill (1994) đã nghiên
cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đánh giá của sinh viên đối với giảng
viên.
14
Về việc sử dụng kết quả sinh viên đánh giá giảng viên: Tác giả Guthrie
(1954), đã nghiên cứu nêu rõ kết quả này được sử dụng cho nhiều mục đích
như giám sát chất lượng giảng dạy và giúp giáo viên nâng cao chất lượng
giảng dạy, tuyển chọn giáo viên mới, trong xem xét đánh giá hàng năm giáo
viên đang giảng dạy, trong các quyết định mang tính nhiệm kỳ và thăng tiến,
trong xem xét đánh giá kiểm định trường học, trong lựa chọn giáo viên và
sinh viên tốt nghiệp để trao tặng giải thưởng danh dự giảng dạy và trong bổ
nhiệm giáo viên cho các khóa học.
Về những thay đổi của giảng viên sau đánh giá của sinh viên: Nghiên cứu
của Hofer, Manfred và các đồng sự (1979) đã chỉ ra rằng có sự thay đổi về
hành vi song để có thay đổi mạnh mẽ cần có sự kết hợp giữa phản hồi của
sinh viên với các phương pháp khác.
Về hiệu quả của phản hồi từ đánh giá của sinh viên: Cohen (1980) đã áp
dụng phương pháp phân tích đa chiều để kết hợp những phát hiện từ 22 phép
so sánh về hiệu quả của phản hồi từ đánh giá của sinh viên tại trường đại học.
Kết quả cho thấy những phản hồi có ảnh hưởng khiêm tốn nhưng rất quan
trọng tới giảng dạy. Những giảng viên nhận được phản hồi giữa kỳ sẽ có điểm
trung bình cuối kỳ cao hơn những giảng viên không nhận được phản hồi giữa
kỳ . Murray (1997) đã chỉ ra rằng chất lượng giảng dạy của giảng viên được
cải thiện sau khi có đánh giá của sinh viên, đặc biệt nếu như đánh giá được hỗ
trợ giải thích bởi các hoạt động tư vấn chuyên gia.
Trong tiến trình phát triển của giáo dục đại học, thông qua công việc
của mình giảng viên đã đóng góp vào những mục tiêu giáo dục chung dưới
những hình thức khác nhau. Họ đã tạo nên môi trường học tập, sáng tạo ra
những kiến thức, những hiểu biết mới và áp dụng những kiến thức để giải
quyết những vấn đề trong thiên nhiên và trong thế giới loài người. Song việc
đánh giá những thành quả lao động của những người GV và chế độ đãi ngộ đã
15
tương xứng với những đóng góp của họ chưa? Chúng ta điểm qua các mốc
hình thành và biến đổi các phương pháp đánh giá GV.
Thời kỳ trung cổ châu Âu: Các trường đại học ở châu Âu dựa vào SV
để kiểm tra việc giảng dạy của GV. Hiệu trưởng chỉ định một hội đồng SV,
hội đồng này có nhiệm vụ ghi chép xem GV có giảng dạy theo đúng lịch trình
giảng dạy quy định của trường không, nếu có sự thay đổi nhỏ nào ngoài quy
định chung, hội đồng SV báo cáo ngay cho hiệu trưởng, hiệu trưởng sẽ phạt
GV về những vi phạm đó. SV đóng tiền học phí trực tiếp cho GV và lương
của họ tính theo số lượng SV dự giờ học (Rashdall, 1936 và Centra, 1993).
Thời kỳ thực dân: Vào thế kỷ XVI và XVII trong các trường đại học
và cao đẳng ở châu Âu, vào cuối năm học đại diện hội đồng quản trị và hiệu
trưởng đã dự giờ quan sát việc GV đặt câu hỏi kiểm tra kiến thức cả năm học
của SV. Việc dự giờ này không thể đánh giá được kiến thức của SV tích luỹ
trong một năm học và cũng không đánh giá được hiệu quả giảng dạy, vì các
GV chỉ đua ra các câu hỏi dễ hoặc các câu hỏi mang tính gợi ý để SV trả lời
dễ dàng (Centra, trang 22, 1993).
Thời kỳ đánh giá hiện đại: Bắt đầu từ năm 1925 đến nay và chia làm 4
giai đoạn.
- Thời kỳ tiền 1960: Vào năm 1927 đại học Purdue, Herman Remmers
và đồng nghiệp của ông đã công bố bảng đánh giá chuẩn và đươc kiểm
nghiệm dùng cho SV đánh giá GV.
- Thời kỳ những năm 1960: GV các trường đại học và cao đẳng đã
nhận thức rõ mục đích và ý nghĩa các bảng đánh giá giảng dạy và đã tình
nguyện sử dụng bảng đánh giá chuẩn với mục đích cải tiến và điều chỉnh việc
giảng dạy của mình trên cơ sở phân tích các kết quả thu được của bảng đánh
giá.
16
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét