Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2016
Quản lý Nhà nước cấp tỉnh đối với các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2. 1. Tỷ lệ các loại hình cơ sở GDCYTNN ....................................... 68
Biểu đồ 2. 2. Tỷ lệ các cấp học hiện có tại các cơ sở GDCYTNN .................. 69
Biểu đồ 2. 3. Trình độ học vấn của giáo viên tại các cơ sở GDCYTNN ......... 72
Biểu đồ 2. 4. Chương trình đào tạo tại các cơ sở GDCYTNN ........................ 74
Biểu đồ 2. 5. Đánh giá về dịch vụ giáo dục khác của các cơ sở GDCYTNN .. 75
Biểu đồ 2. 6. Đánh giá của cán bộ quản lý về chế độ làm việc tại cơ sở
GDCYTNN.................................................................................................... 77
Biểu đồ 2.7. Đánh giá của giáo viên về chế độ làm việc tại các cơ sở
GDCYTNN.................................................................................................... 77
Biểu đồ 2. 8. Giấy tờ pháp lý liên quan của các giáo viên người nước ngoài tại
các cơ sở GDCYTNN .................................................................................... 78
Biểu đồ 2. 9 Mức độ thường xuyên tổ chức các hoạt động đánh giá chuyên
môn giáo viên tại các cơ sở GDCYTNN trong địa bàn Hà Nội ...................... 79
Biểu đồ 2. 10. Mức độ minh bạch trong quản lý tài chính tại cơ sở GDCYTNN
....................................................................................................................... 80
Biểu đồ 2. 11. Cách thức đánh giá kết quả giảng dạy và học tập tại cơ sở
GDCYTNN.................................................................................................... 81
Biểu đồ 2. 12. Đánh giá mức độ phù hợp của cách thức đánh giá kết quả giảng
dạy và học tập tại GDCYTNN từ quan điểm của các cán bộ quản lý cấp nhà
nước ............................................................................................................... 83
Biểu đồ 2. 13. Mức độ chấp hành các chính sách quản lý nhà nước của các cơ
sở GDCYTNN ............................................................................................... 99
Biểu đồ 2. 14. Biểu đồ thể hiện về kiến thức và kỹ năng học sinh thu nhận
được từ các cơ sở GDCYTNN ..................................................................... 108
ix
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Tính quy định của xã hội đối với giáo dục là một trong những quy luật
quan trọng của quá trình phát triển giáo dục.Theo đó, giáo dục luôn mang tính
lịch sử cụ thể, tính dân tộc và tính quốc tế, tính thời đại.
Sự phát triển giáo dục của mỗi quốc gia không chỉ làm gia tăng bản sắc
văn hoá của dân tộc đó mà còn hướng đến những đỉnh cao của giáo dục nhân
loại. Tính quốc tế, tính thời đại của giáo dục phù hợp với xu thế hội nhập
quốc tế về giáo dục. Tuy nhiên, tốc độ và quy mô của quá trình đó phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội và phát triển giáo dục của mỗi quốc gia.
Mặt khác, điều quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế về giáo dục là nền
giáo dục của quốc gia “một mặt phải vận động, phát triển theo xu hướng phát
triển chung của giáo dục nhân loại, mặt khác phải giữ gìn và phát huy được
bản sắc văn hóa của dân tộc mình” [66, tr. 14].
Việt Nam gia nhập WTO không chỉ thuần tuý là tác động của quá trình
toàn cầu hoá, mà còn xuất phát từ yêu cầu nội tại của bản thân xã hội Việt
Nam trong xu thế hiện nay. Với tư cách là thành viên của tổ chức thương mại
thế giới, mỗi quốc gia thành viên của tổ chức này bắt buộc phải thực hiện các
cam kết thương mại. Giáo dục là một trong số các dịch vụ mà các nước tham
gia WTO sẽ cung ứng tự do với nhau. Trong bối cảnh này, giáo dục không
thuần tuý chỉ là một hình thái thuộc lĩnh vực tư tưởng - ý thức hệ, với tư cách
là phương thức truyền đạt và chuyển giao văn hoá nhân loại và dân tộc của
các thế hệ trước cho các thế hệ đang lớn lên nhằm dựng xây xã hội mới mà
còn là một con đường hữu hiệu phục vụ cạnh tranh kinh tế phạm vi toàn cầu
mang tính chất thương mại. Hội nhập quốc tế về giáo dục và thực hiện cam
kết về dịch vụ giáo dục trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại các
dịch vụ - GATS, một mặt tạo cho giáo dục của các nước đang phát triển nhiều
cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với sự phát triển giáo dục
của các nước này. Cụ thể là:1) Các nước phát triển đang tích cực khai thác
1
tính chất tự do thương mại để xuất khẩu GD nhằm lợi ích lợi nhuận kinh tế; 2)
Thu hút nhân tài, gây nạn “chảy máu chất xám” đối với nước kém phát triển;
3) Mở rộng thị phần trong thị trường đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho các
dự án đầu tư kinh tế –chuyển giao công nghệ vào nước nhận nhập khẩu cả GD
và kinh tế; 4) Truyền bá văn hoá - lối sống đối với các nước nhập khẩu GD;
5) Với mục tiêu đẩy nhanh thương mại hoá GD; WTO, WB, IMF khuyến
khích áp dụng chủ nghĩa tự do mới, một mặt giảm đầu tư công cộng vào
trường công lập mà thay thế bằng tư nhân hóa, tự do cạnh tranh trong dịch vụ
giáo dục áp dụng trong mỗi nước TBCN, và do vậy nó tác động đến quyền lợi
được học tập của đa số dân cư, tạo ra bất bình đẳng mới trong GD giữa thanh,
thiếu niên nói chung, cộng đồng đa số dân cư thuộc tầng lớp lao động và dân
nghèo nói riêng [33]; [77].
1.2. Cơ cấu hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc
tế đã có những thay đổi sâu sắc tất yếu đòi hỏi phải có những cơ chế quản lý
giáo dục tương ứng. Tại các nước phát triển trên thế giới và các nước trong
khu vực, các cơ sở giáo dục đào tạo có hợp tác, đầu tư của nước ngoài rất phổ
biến. Tại Singapore, Thái Lan, Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, nhiều trường quốc tế
(The International Schools) đã được thành lập. Chương trình giảng dạy
thường là của Anh, Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Pháp v.v… Ngôn ngữ dạy và học chủ
yếu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp. Chính phủ các nước đều có những chính
sách, quy định cụ thể nhằm khuyến khích đầu tư và phát triển các trường quốc
tế và các cơ sở giáo dục đào tạo có sử dụng chương trình tiên tiến của nước
ngoài, sử dụng giáo viên nước ngoài, góp phần quan trọng trong việc đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ năng lực trong môi trường cạnh tranh
toàn cầu. Các trường quốc tế, các cơ sở giáo dục đào tạo có hợp tác, đầu tư
của nước ngoài còn gián tiếp nâng cao chất lượng giáo dục của các nước và là
hình mẫu cho các quốc gia khi muốn xây dựng các trường học đạt chuẩn quốc
tế và khu vực [85]; [93].
2
1.3. Với phương châm Việt Nam muốn làm bạn và hợp tác với tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, đất nước
ta đã có bước khởi đầu vững chắc trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trong
tiến trình đó, giáo dục và đào tạo luôn được Đảng và Nhà nước xác định là
“quốc sách hàng đầu”. Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện cơ
chế chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện: động
viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng đồng;
khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập,
tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế trong giáo dục, đào tạo” [28, tr. 557].
Công cuộc đổi mới kinh tế với nội dung chủ yếu là chuyển sang kinh tế
thị trường mở cửa định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian qua
đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Một trong những đóng góp quan
trọng vào thành tựu đó là huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài
nói chung và vào lĩnh vực giáo dục đào tạo nói riêng. Luật đầu tư của Việt
Nam hiện nay khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục
đào tạo, từ đó xuất hiện nhiều cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài ở nước ta
trong thời gian gần đây, nhất là khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới.
Thực tiễn quản lý các cơ sở GDCYTNN thời gian vừa qua cho thấy:
mặc dù nhà nước ta đã ban hành một số văn bản về quản lý nhà nước đối với
các cơ sở GDCYTNN như: Luật Giáo dục 2005 (Điều 107); Nghị định số
06/2000/NĐ-CP ngày 06 tháng 03 năm 2000 của Chính phủ về việc hợp tác
đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo,
nghiên cứu khoa học; Nghị định số 18/2001/NĐ-CP ngày 04 tháng 05 năm
2001 của Chính phủ quy định về việc thành lập và hoạt động của các cơ sở
văn hoá, giáo dục nước ngoài tại Việt Nam; Thông tư số 14/2005/TTLTBGD&ĐT-BKH&ĐT ngày 14 tháng 4 năm 2005 của Liên Bộ Giáo dục và
3
Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn một số điều của Nghị định số
06/2000/NĐ-CP ngày 06 tháng 03 năm 2000 của Chính phủ; Thông tư số
15/2003/TT-BGD&ĐT ngày 31 tháng 3 năm 2003 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 18/2001/NĐ-CP ngày
04 tháng 05 năm 2001 của Chính phủ; tuy nhiên, các văn bản trên chưa thực
sự tạo ra hành lang pháp lý phù hợp nhằm tận dụng tối đa mặt tích cực và hạn
chế những mặt tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế về giáo dục, đặc biệt
chưa qui định chặt chẽ và cụ thể thẩm quyền và trách nhiệm quản lý các cơ sở
GDCYTNN. Điều này đã ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý nhà nước đối với
các cơ sở GDCYTNN và để xảy ra những vấn đề hết sức phức tạp gây thiệt
hại lớn cho người học và cộng đồng. Ngày 24 tháng 12 năm 2010 Chính phủ
ban hành Nghị định 115/2010/NĐ-CP về Quy định trách nhiệm quản lý nhà
nước về giáo dục. Tại cấp tỉnh, thành phố theo nghị định này, tại điều 6 khoản
5 có qui định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục thì ủy ban tỉnh có
trách nhiệm cho phép thành lập các trung tâm tin học và các cơ sở khác do đó
các cơ sở GDCYTNN là việc mới, là các cơ sở giáo dục khác nên chưa có các
văn bản giao trách nhiệm cụ thể cho cơ quan nào giúp UBND Thành phố
quản lý, vì vậy trách nhiệm chưa thuộc về cơ quan nào.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội, nơi hệ thống các trường
quốc tế và các trường có yếu tố nước ngoài đang phát triển nhanh, Sở Giáo
dục và Đào tạo đã có những đề xuất bước đầu một số kiến nghị với Ủy ban
Nhân dân thành phố và Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành một số chính sách
nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với loại hình này.
Những phân tích lý luận và thực tiễn trên cho thấy, quá trình hội nhập
quốc tế về giáo dục đã xuất hiện các mô hình giáo dục mới nên đặt ra những yêu
cầu mới khó khăn và phức tạp đối với công tác quản lý nhà nước về giáo dục.
Một trong các lĩnh vực của quản lý là xây dựng các chính sách quản lý, và các
công cụ để quản lý các cơ sở GDCYTNNtrong bối cảnh hội nhập quốc tế là
một công việc cấp bách đối với quản lý nhà nước về giáo dục hiện nay ở Việt
4
Nam, đặc biệt ở cấp tỉnh, thành phố nơi có trách nhiệm quản lý trực tiếp các
đơn vị này. Đó cũng là lý do của việc nghiên cứu đề tài luận án “Quản lý nhà
nước cấp tỉnh đối với các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục đối với
các cơ sở GDCYTNN theo phân cấp quản lý cho cấp tỉnh ở Việt Nam nhằm
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với các cơ sở này trong bối cảnh hội
nhập quốc tế hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục có yếu tố nước
ngoài thuộc phạm vi phân cấp quản lý cho cấp tỉnh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý nhà nước về giáo dục đối với các cơ sở GDCYTNN
thuộc phạm vi phân cấp quản lý cho cấp tỉnh.
4. Các câu hỏi nghiên cứu
1) Những vấn đề lý luận và thực tiễn nào cần phải được nghiên cứu nhằm
tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục đối với cơ sở GDCYTNN thuộc
phạm vi phân cấp quản lý cho cấp tỉnh ở Việt Nam?
2) Vấn đề tồn tại trong quản lý nhà nước về giáo dục đối với các cơ sở
GDCYTNN thuộc phạm vi phân cấp quản lý cho cấp tỉnh ở Việt Nam hiện
nay là gì? (Tại sao cần đặt vấn đề về việc tăng cường quản lý nhà nước về
giáo dục đối với cơ sở GDCYTNN thuộc phạm vi phân cấp quản lý cho cấp
tỉnh trong bối cảnh phát triển giáo dục Việt Nam hiện nay?). Cụ thể là:
- Kết quả nghiên cứu lý luận và xu hướng phát triển của các cơ sở
GDCYTNN ở Việt Nam có khẳng định tính tất yếu về sự phát triển các loại
hình cơ sở giáo dục này ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hay
không? Nếu có, vị trí của chúng trong cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân
5
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét