Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng ở trường trung học phổ thông Bình Độ tỉnh Lạng Sơn

quy định của ngành GD&ĐT; các loại sách báo liên quan đến QL nhà trường, QL hoạt động dạy học ở trường THPT. 8.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 8.2.1. Phương pháp quan sát Thu thập thông tin bằng việc quan sát hoạt động QL của hiệu trưởng, hoạt động của tổ bộ môn, hoạt động giảng dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh. 8.2.2. Phương pháp điều tra viết Bước 1: Xây dựng phiếu điều tra. Bước 2: Tổ chức điều tra bằng phiếu. Bước 3: Thu thập phiếu điều tra, tổng hợp, xử lý số liệu thu đươc. 8.2.3. Phương pháp trao đổi, phỏng vấn Trao đổi, phỏng vấn thu thập thông tin từ hiệu trưởng, tổ trưởng bộ môn, giáo viên và học sinh về công tác QL hoạt động giảng dạy và học tập. 8.3. Phương pháp thống kê Sử dụng thống kê toán học để xử lý các số liệu nghiên cứu. 9. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học ở Trường THPT Bình Độ tỉnh Lạng Sơn Chương 3: Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng ở Trường THPT Bình Độ tỉnh Lạng Sơn 4 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề Đã từ lâu, giáo dục luôn thể hiện vai trò quan trọng, có tính chất quyết định đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia và nền văn minh của cả nhân loại. Chính vì vậy giáo dục luôn dành được sự quan tâm của các cấp QL và toàn xã hội. Ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục đã được cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương và các chính sách cấp nhà nước. Nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII “Về định hướng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”đã nhấn mạnh: "GD&ĐT hiện nay phải có một bước chuyển nhanh chóng về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường, nhằm nhanh chóng đưa GD&ĐT đáp ứng yêu cầu mới của đất nước. Thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước" [5]. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX cũng khẳng định: "Tiếp tục nâng cao chất lượng GD toàn diện, đổi mới nội dung, PPDH, hệ thống trường lớp và hệ thống QLGD, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá" [4]. Trong bối cảnh tri thức đã được coi là nguồn lực có tính chất then chốt đối với sự tăng trưởng của mỗi nền kinh tế, cả xã hội đều nhận thấy giáo dục và QLGD là yếu tố cơ sở để phát triển đất nước. Trong các trường học, muốn nâng cao chất lượng dạy học đòi hỏi người hiệu trưởng phải biết xây dựng, vận dụng các biện pháp QL một cách phù hợp, khoa học vì chủ yếu công việc QL của người hiệu trưởng là QL hoạt động dạy học trong nhà trường, làm sao để nâng cao được hiệu quả và chất lượng giáo dục. Trong thời gian qua, nhiều nhà khoa học đã đầu tư công sức, trí tuệ và tiền của vào công việc nghiên cứu HĐDH và biện pháp QL HĐDH. Các đề tài nghiên cứu cũng hết sức đa dạng, chủ yếu các tác giả tập trung nghiên cứu 5 về mặt lý luận như: các chức năng của QLGD; chức năng, phẩm chất, tiêu chuẩn của người QLGD; vai trò, công việc cuả người hiệu trưởng và đội ngũ cán bộ QLGD trong nhà trường ... Có thể kể tên một số tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Văn Lê, Hồ Sĩ Thế, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Bá Lãm, …. Ý kiến của nhiều tác giả đều cho rằng: trong nhà trường hiệu trưởng phải là người biết kết hợp một cách hữu cơ sự QL dạy và học (nghĩa rộng) với sự quản lí các quá trình bộ phận, hoạt động dạy và học các môn học và các hoạt động khác hỗ trợ cho hoạt động dạy và học nhằm làm cho công tác giáo dục được hoàn chỉnh, trọn vẹn. Các tác giả Nguyễn Ngọc Thanh và Lê Ngọc Trà cùng nhấn mạnh vai trò của công tác QL đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục là các nhà làm công tác giáo dục phải không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng điều hành và QL của mình để qua đó tác động một cách hiệu quả vào quá trình cải tiến chất lượng ở các khâu, các bộ phận của hệ thống giáo dục ở cấp vi mô cũng như vĩ mô. Các tác giả Lê Tuấn và Hồ Sĩ Thế cũng khẳng định rằng: trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo, việc QL dạy và học là nhiệm vụ trung tâm của nhà trường. Hiện nay trong các nhà trường, người hiệu trưởng và đội ngũ cán bộ QLGD cũng dành nhiều quan tâm, đầu tư thời gian tìm hiểu, nghiên cứu về các biện pháp QL nhà trường, QL HĐDH với mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động này. Đó là những đề tài rất có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn, giúp người hiệu trưởng có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về công việc của mình từ đó xác định được cách làm đúng quy luật, phù hợp với thực tế, tình hình của cơ sở giáo dục mình QL. Tuy nhiên có rất ít đề tài nghiên cứu, tìm hiểu về biện pháp QL HĐDH ở các nhà trường phổ thông thuộc vùng khó khăn, khu vực miền núi, dân cư chủ yếu là người dân tộc thiểu số, điều kiện kinh tế xã hội có nhiều khó khăn. Vì vậy trong trong khuôn khổ luận văn này tác giả muốn dựa trên cơ sở lý luận về QL HĐDH để tìm hiểu thực trạng QL HĐDH ở Trường THPT Bình Độ tỉnh Lạng Sơn. Từ 6 đó đề xuất một số biện pháp QL giúp hiệu trưởng Nhà trường nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học. 1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài 1.2.1. Quản lý và các khái niệm liên quan đến vấn đề quản lý 1.2.1.1. Quản lý QL xuất hiện, phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Đây là một trong những loại hình lao động lâu đời và quan trọng nhất của con người, là công vệc cần thiết trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, có tính chất quyết định đến sự phát triển của toàn xã hội. Song chỉ những năm gần đây người ta mới thừa nhận tính chất khoa học của nó và QL mới được coi là một ngành khoa học theo đúng nghĩa. Bất kì một tổ chức, một tập thể nào cũng đều có yếu tố QL trong đó và điều đó quyết định tới hiệu qủa hoạt động của tổ chức theo mục tiêu đề ra. Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về QL tùy theo quan điểm và cách tiếp cận. Có người cho rằng QL là sự chỉ huy, lãnh đạo, sự cai quản, sự điều khiển, điều chỉnh… Tuy nhiên có thể nêu lên một số quan điểm có tính chất cốt lõi của một số tác giả như sau: K.Marx cho rằng: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [25]. Như vậy bản chất của QL là một hoạt động lao động có tính tất yếu, vô cùng quan trọng trong quá trình lao động, phát triển của loài người. Henry Fayol (1841 – 1925) nhấn mạnh: QL là một hệ thống phát huy tác dụng có tính chất độc lập không thể thay thế. Theo ông: “quản lý là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra” [24, tr.17] 7 Mary ParKer Follett (1868 - 1933) nổi tiếng với thuyết hành vi trong quản lý cho rằng: “Quản lý là một quá trình lao động, liên tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại” [24, tr.24]. Tác giả H. Koontz cũng nhấn mạnh: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm (tổ chức). Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [22, tr.33]. Các tác giả Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về khoa học QL và thể hiện nhiều quan điểm về vấn đề này như sau: Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý là sự tác động có mục đích tới tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục đích đã định trước” [27, tr.33]. Theo tác giả Nguyễn Văn Lê: “Quản lý với tư cách là một hệ thống xã hội, là khoa học và nghệ thuật tác động vào từng thành tố của hệ bằng các phương pháp thích hợp, nhằm đạt các mục tiêu đề ra cho hệ và cho từng thành tố của hệ” [23, tr.28]. Tác giả Phạm Văn Kha khẳng định: “Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã định” [20, tr.6]. Theo các tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ thì: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [19, tr.17]. Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì hoạt động quản lý là: “tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý 8 (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) – trong một tổ chức – nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [10, tr.1]. Còn tác giả Đặng Quốc Bảo thì khẳng định : Bản chất của hoạt động QL nhằm làm cho hệ thống vận hành theo mục tiêu đặt ra và tiến đến các trạng thái có tính chất lượng mới”. Quản lý = Quản + Lý Trong đó : - Quản là chăm sóc, giữ gìn sự ổn định . - Lý là sửa sang, sắp xếp, đổi mới phát triển. Hệ ổn định mà không phát triển thì tất yếu dẫn đến suy thoái. Hệ phát triển mà không ổn định tất yếu dẫn đến rối ren. Vậy: Quản lý = ổn định + phát triển Theo từ điển tiếng việt thì QL là hoạt động của con người tác động vào tập thể người khác để phối hợp, điều chỉnh, phân công thực hiện mục tiêu chung. Từ rất nhiều quan điểm khác nhau nêu trên, chúng ta có thể hiểu khái quát về QL như sau: QL là sự tác động, chỉ huy điều khiển hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, nhằm đạt được mục đích đề ra. Sự tác động của QL bằng cách nào đó để người bị QL luôn tự giác, phấn khởi đem hết năng lực, trí tuệ của mình tạo nên lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cả xã hội. Khái niệm QL bao hàm những khía cạnh sau: Đối tượng tác động của QL là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như một cơ thể sống gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất định, tồn tại trong không gian, thời gian cụ thể. Hệ thống QL gồm hai phân hệ: Chủ thể QL và khách thể QL, giữa chúng có sự tác động tương hỗ, biện chứng với nhau. QL bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định. Tác động quản lí thường mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều phương pháp khác nhau. 9

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét