Thứ Năm, 17 tháng 3, 2016
Đánh giá quy trình thiết kế đề thi trắc nghiệm khách quan tại khoa Khoa học Tự nhiên và Xã hội Đại học Thái Nguyên
hoá hoạt động học tập của người học… Trên cơ sở nắm chắc kiến thức đo lường và
đánh giá trong giáo dục, cần tiến hành xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm
(gồm cả câu hỏi TNKQ và tự luận) chuẩn hoá cho từng môn học. Sử dụng ngân
hàng này, người học có thể tự ôn tập kiểm tra kiến thức, giáo viên có thể sử dụng để
kiểm tra đánh giá học sinh. Để làm được điều này, phải bắt đầu từ việc đào tạo đội
ngũ chuyên gia về đánh giá trong giáo dục và bồi dưỡng các kiến thức về khoa học
đo lường đánh giá trong giáo dục cho giáo viên ở mọi cấp học, bậc học.
Công cuộc đổi mới phương pháp giảng dạy ở trường đại học hiện nay đang
được đặc biệt quan tâm, các giảng viên được tập huấn về đổi mới phương pháp
giảng dạy, các phương pháp kiểm tra đánh giá, tuy nhiên hiệu quả chưa cao. Sử
dụng ngân hàng câu hỏi và thi trắc nghiệm khách quan hiện đang được các trường
khuyến khích, tuy nhiên đa số các câu hỏi trắc nghiệm khách quan do giảng viên tự
biên soạn chưa theo đúng quy trình, đặc biệt các câu hỏi sau khi sử dụng không
được phân tích, đánh giá nên các đề thi/ kiểm tra hiện nay là chưa chuẩn và chất
lượng không cao.
Trước tình hình như vậy, tôi chọn đề tài luận văn: “Đánh giá quy trình thiết
kế đề thi trắc nghiệm khách quan tại Khoa Khoa học Tự nhiên và Xã hội
(nay là trƣờng Đại học Khoa học) – Đại học Thái Nguyên”. Kết quả nghiên cứu
của luận văn sẽ là tài liệu cần thiết góp phần vào quá trình nâng cao chất lượng và
hiệu quả của việc biên soạn và thiết kế đề thi trắc nghiệm khách quan tại đơn vị,
đồng thời giúp đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng của giảng viên trong
việc thiết kế câu hỏi TNKQ dùng để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh
viên.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đánh giá quy trình và hiệu quả của việc thiết kế và sử dụng các đề thi trắc
nghiệm khách quan hiện nay của Nhà trường;
Đưa ra quy trình chuẩn thiết kế các đề thi trắc nghiệm khách quan.
Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng thiết kế đề thi TNKQ của
giảng viên.
2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
-
Khảo sát thực trạng về quy trình, cách thức thiết kế đề thi trắc nghiệm khách
quan của các giảng viên trong Trường.
-
Phân tích các câu hỏi trắc nghiệm khách quan của các đề thi đã được sử dụng
(căn cứ vào kết quả trả lời trắc nghiệm của sinh viên).
-
Đưa ra quy trình chuẩn thiết kế đề thi trắc nghiệm khách quan.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu phương pháp, cách thức thiết kế đề thi trắc nghiệm khách
quan của các giảng viên trong Trường;
Nghiên cứu, đánh giá các câu hỏi trắc nghiệm khách quan của một số đề thi
TNKQ đã được sử dụng trong Trường, từ đó đề xuất quy trình chuẩn thiết kế
đề thi TNKQ.
5. Câu hỏi nghiên cứu/ giả thuyết nghiên cứu của đề tài.
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Hiện nay các giảng viên trong Trường thiết kế đề thi TNKQ trên cơ sở nào?
Theo quy trình nào?
Các giảng viên có nắm được quy trình thiết kế một đề thi TNKQ hay không?
Đề thi của các giảng viên có đáp ứng yêu cầu kiểm tra đánh giá thành quả
học tập hay không?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Việc thiết kế đề thi TNKQ trong Nhà trường hiện nay hoàn toàn theo tính chủ
quan của các giảng viên.
Chất lượng của các câu hỏi, đề thi TNKQ do các giảng viên biên soạn không
cao, không đánh giá chính xác năng lực của sinh viên.
6. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
6.1. Khách thể nghiên cứu
Các giảng viên đang giảng dạy tại Trường và đang áp dụng hình thức thi
TNKQ cho các kỳ thi của Nhà trường.
3
Các bài thi TNKQ (kết quả thi TNKQ do sinh viên làm)
6.2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cách thức, quy trình thiết kế đề thi TNKQ của các giảng viên
trong Trường hiện nay.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu về đo lường đánh giá trong giáo dục.
7.2. Nghiên cứu thực nghiệm
Quan sát: quan sát quá trình thực hiện đổi mới kiểm tra đánh giá của giảng
viên, quá trình thử nghiệm xây dựng ngân hàng câu hỏi TNKQ.
Điều tra: bằng phiếu hỏi và phỏng vấn để tìm hiểu quy trình thiết kế đề thi
TNKQ của các giảng viên trong Trường.
Phân tích và tổng kết kinh nghiệm
7.3. Phương pháp Toán học
Sử dụng phần mềm SPSS phân tích số liệu thống kê.
Sử dụng phần mềm chuyên dụng Quest, ConQuest.
8. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận và tổng quan về quy trình thiết kế đề thi.
Chương 2. Thực trạng quy trình thiết kế đề thi TNKQ tại trường Đại học
Khoa học – Đại học Thái Nguyên.
Chương 3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quy trình thiết kế đề thi
TNKQ tại trường Đại học Khoa học.
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
4
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Ở Châu Âu và Mỹ khoa học đo lường trong giáo dục phát triển rất mạnh vào
thời kì trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai (mặc dù khoa học đo lường trong
giáo dục có thể xem như bắt đầu cách đây một thế kỉ).
Để đánh dấu một bước phát triển rất mạnh, lĩnh vực đo lường trong giáo dục
có các dấu mốc quan trọng, một loạt các trắc nghiệm và kĩ thuật ra đời như: Trắc
nghiệm trí tuệ Stanford-Binet xuất bản năm 1916, bộ trắc nghiệm thành quả học tập
tổng hợp đầu tiên Stanford Achievement Test ra đời vào 1923. Với việc đưa vào
chấm trắc nghiệm bằng máy của IBM năm 1935, việc thành lập National Council on
Measurement in Education (NCME) vào thập niên 1950 và ra đời Educational
Testing Services (ETS) năm 1947, một ngành công nghiệp trắc nghiệm đã hình
thành ở Mỹ. Từ đó đến nay khoa học về đo lường trong tâm lý và giáo dục đã phát
triển liên tục. Quá trình phát triển của khoa học đo lường trong giáo dục không phải
không có những phản hồi mà quá trình phát triển này phải chịu những phê bình chỉ
trích một cách thường xuyên, nhưng sự phê bình chỉ trích này không đánh đổ được
khoa học đo lường trong giáo dục, mà làm cho khoa học đo lường trong giáo dục có
cơ sở điều chỉnh những cái còn thiếu sót và khuyết điểm, những cái chưa làm được
để cho khoa học đo lường đánh giá trong giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn [18].
Ngành công nghiệp trắc nghiệm ở Mỹ hiện nay ước tính mỗi năm số lượt trắc
nghiệm tiêu chuẩn hoá cỡ 1/4 tỉ và trắc nghiệm do giáo viên soạn lên đến con số 5
tỉ. Ngành công nghiệp trắc nghiệm phát triển nhanh kéo theo một loạt ngành liên
quan phát triển theo như: ngành công nghệ thông tin, lí thuyết đo lường trong tâm lí
phát triển giáo dục. Từ đó việc nâng cao độ chính xác trắc nghiệm ra đời, đó là công
nghệ trắc nghiệm nhờ máy tính (Computer Adaptive Test – CAT).
Một số nước trên thế giới dùng ngân hàng câu hỏi TNKQ để thi tuyển sinh
đại học.
5
Ở Mỹ các trường đại học không tổ chức thi tuyển mà dựa vào kết quả của
các kỳ thi do các công ty ngoài nhà nước tổ chức để xét tuyển. Có dịch vụ thi phục
vụ công việc này, đó là SAT (Scholastic Assesment Test) do công ty ETS tổ chức,
và ACT do Chương trình ACT (American College Testing Program) triển khai.
SAT cho thi 2 môn: Anh ngữ và Toán, còn ACT cho thi 4 môn: ngoài Anh ngữ và
Toán còn thi thêm đọc hiểu và suy luận khoa học.
Còn Nhật Bản, “Trung tâm quốc gia về Tuyển sinh đại học” được thành lập
năm 1977 tổ chức kỳ thi tuyển chung cho hầu hết các trường đại học công và tư của
Nhật Bản hàng năm. Đề thi được soạn cho 31 môn cụ thể, mỗi thí sinh có thể lựa
chọn thi 5 môn của 5 nhóm nào đó tuỳ theo quy định của trường đại học mà thí sinh
dự định dự tuyển. Để tổ chức mỗi năm một kỳ thi, Trung tâm này chi tiêu hàng năm
cỡ 100 triệu USD.
Với Thái Lan, kỳ thi tuyển sinh đại học liên kết được tổ chức cho hầu hết các
trường đại học công và tư từ hơn 30 năm nay. Với kết quả kỳ thi, thí sinh có thể xin
dự tuyển vào 5 ngành khác nhau của các trường đại học. Từ năm 1998, Thái Lan bắt
đầu cải tiến kỳ thi liên kết bằng cách xét thêm điểm trung bình học ở trường phổ
thông (với trọng số 10%) và cho thi mỗi năm 2 lần.
Ở Trung Quốc, từ năm 1989, việc tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung
học được giao cho các địa phương, còn kỳ thi tuyển đại học được tổ chức thống
nhất trên cả lục địa Trung Quốc vào đầu tháng 7 hàng năm và đề thi chủ yếu bằng
ngân hàng câu hỏi TNKQ [18].
1.1.2. Việt Nam
Khoa học về đo lường và đánh giá trong giáo dục ở nước ta trước đây trong
tình trạng khá lạc hậu và chậm phát triển. Trước năm 1975, ở Miền Nam nước ta có
một vài người được đào tạo về khoa học này từ các nước phương Tây, trong đó có
giáo sư Dương Thiệu Tống. Ông đã đưa test vào ngành giáo dục để thực hiện nhưng
không thành công. Sau đó ông chỉ áp dụng ngân hàng câu hỏi vào việc thi kiểm tra
đánh giá và đặc biệt áp dụng vào việc thi tuyển sinh đại học. Trường Đại học áp
dụng mô hình thi trắc nghiệm đầu tiên ở nước ta là trường Đại học Đà Lạt. Vào năm
6
1974, kỳ thi tú tài lần đầu tiên được tổ chức ở Miền Nam bằng phương pháp TNKQ.
Vào những năm sau 1975, ở miền Bắc có một số cán bộ nghiên cứu về khoa học đo
lường trong tâm lý. Đến năm 1993, Bộ GD & ĐT đã mời một số chuyên gia nước
ngoài phổ biến về khoa học này, đồng thời cử cán bộ ra nước ngoài học tập. Từ đó
một số trường đại học có tổ chức các nhóm nghiên cứu áp dụng các phương pháp đo
lường trong giáo dục để thiết kế các công cụ đánh giá, soạn thảo các phần mềm hỗ
trợ, mua máy quét quang học chuyên dụng (OMR) để chấm thi. Kỳ thi tuyển đại học
thí điểm được tổ chức tại trường Đại học Đà Lạt vào tháng 7 năm 1996 bằng
phương pháp TNKQ. Kỳ thi này có 7200 thí sinh dự tuyển, 2 loại đề TNKQ và TL
được sử dụng để thí sinh tự chọn. Có khoảng 70% lượt thí sinh chọn đề TNKQ, bài
thi được chấm bằng máy Opscan-7, trong khoảng 60 trường hợp vi phạm kỷ luật thi
do quay cóp thì chỉ có 4 thí sinh từ nhóm làm đề TNKQ. [18]
Năm 1997, tác giả Nguyễn Phụng Hoàng đã cho ra đời cuốn sách: “Phương
pháp trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh giá thành quả học tập”. Cuốn sách viết đại
cương về các vấn đề đo lường, đánh giá, các phương pháp đo, cách soạn một bài
trắc nghiệm khách quan,… tài liệu này rất bổ ích đối với các giáo viên và những
người quan tâm đến việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên [2].
Ngày 02/03/1995, Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và Nghiên cứu
phát triển giáo dục của Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập. Đây là đơn vị đầu
tiên ở Việt Nam nghiên cứu chuyên sâu về đảm bảo chất lượng giáo dục, đo lường
và đánh giá. Trung tâm đã và đang thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, các
dự án trong nước và quốc tế về các lĩnh vực: khảo thí, đo lường và đánh giá, phương
pháp giảng dạy và học tập tích cực, xử lý phân tích số liệu… Trung tâm hiện là đơn
vị đầu tiên trong cả nước tổ chức đào tạo Thạc sĩ Đo lường và Đánh giá trong Giáo
dục (Measurement and Evaluation in Education), theo quyết định số 307/SĐH của
Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung chính của Khóa đào tạo Thạc sĩ là
cung cấp kiến thức và sự hiểu biết chuyên sâu về khoa học đo lường, đánh giá như:
các mô hình lý thuyết đo lường đánh giá trong giáo dục, các phương pháp và công
cụ đo lường đánh giá phù hợp cho từng lĩnh vực chuyên môn, kiến thức về xử lý,
7
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét