Thứ Tư, 23 tháng 3, 2016

Quản lý đào tạo chuyên ngành an toàn thông tin tại Học Viện kỹ thuật Mật mã

mã, phục vụ cho sự nghiệp an ninh quốc phòng và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 6.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường và quản lý hoạt động đào tạo… 6.2. Đánh giá thực trạng hoạt động đào tạo và quản lý hoạt động đào tạo chuyên ngành an toàn thông tin tại Học viện Kỹ thuật Mật mã 6.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo chuyên ngành an toàn thông tin của Học viện kỹ thuật Mật mã, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo 6.4. Thử nghiệm và đánh giá một số biện pháp 7. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Phân tích, tổng hợp các vấn đề có liên quan trong các văn bản của Đảng, Nhà nước về giáo dục và đào tạo, các tài liệu về khoa học quản lý, quản lý giáo dục, giáo dục học, lý luận dạy học…từ đó hệ thống hoá để xây dựng cơ sở lý luận đề tài. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp điều tra và khảo sát Sử dụng phiếu hỏi để trưng cầu ý kiến của học viên, giảng viên, cán bộ quản lý, chuyên gia quản lý giáo dục. 7.2.2. Phương pháp chuyên gia Xin ý kiến của các chuyên gia quản lý giáo dục cán bộ quản lý có kinh nghiệm, các giảng viên lâu năm có uy tín về đối tượng nghiên cứu nhằm khẳng định mức độ cần thiết, tính khả thi của các biện pháp được đề xuất. 7.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Phân tích tổng kết kinh nghiệm của những cán bộ quản lý giáo dục đã làm công tác quản lý lâu năm. 6 7.2.4. Phương pháp quan sát sư phạm Thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu bằng các tri giác trực tiếp đối tượng và các nhân tố khác liên quan đến đối tượng nghiên cứu. 7.3. Phương pháp xử lý số liệu Dùng phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu thông tin đã được thu thập. 8.Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được cấu trúc thành 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý đào tạo ở các trường đại học. Chƣơng 2: Thực trạng quản lý hoạt động đào tạo chuyên ngành an toàn thông tin tại Học viện Kỹ thuật Mật mã. Chƣơng 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo chuyên ngành an toàn thông tin tại Học viện Kỹ thuật Mật mã. 7 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Quản lý hoạt động đào tạo có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục đại học Việt Nam. Nó còn đặc biệt hơn trong giai đoạn nước ta đang có những bước chuyển đổi mạnh mẽ để thích nghi với xu thế hội nhập toàn cầu hoá trên thế giới. Đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị đặc biệt trong việc phát triển lý luận và ứng dụng thực tiễn trong quản lý giáo dục đào tạo ở Việt nam nói chung và ở các nhà trường, học viện nói riêng. Quản lý hoạt động đào tạo là một lĩnh vực nghiên cứu đã được một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục đề cập đến: Tác giả: Lê Thi ̣Thủ y nghiên cứu “ Một số biê ̣n pháp quản lí hoạt động đào tạo hê ̣ cử nhân quản lí giáo dục tại Khoa Sư phạm – Đại học Quố c gia Hà Nội. Tác giả: Nguyễn Văn Thành nghiên cứu “ Biê ̣n pháp tăng cường quản lí hoạt động đào tạo tạ i Khoa Tâm lí – Giáo dục học , Trường Đại học Hải Phòng”. Tác giả : Ngô Thi ̣Lu ̣a nghiên cứu “ Các biện pháp quản lí hoạt động đào tạo của trường Trung học Nông – Lâm – Nghiê ̣p Yên Bái nh ằm đáp ưng ́ yêu cầ u nguồ n nhân lực nông – lâm – nghiê ̣p của tỉnh trong giai đoạn hiê ̣n nay”. Các tác giả có những đánh giá cụ thể và sâu sắc thực trạng công tác quản lý hoạt động đào tạo của một số trường tại một số địa phương trong cả nước, đồng thời cũng đề ra một số biện pháp quản lý phù hợp nhằm giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong từng cơ sở giáo dục đào tạo cụ thể. Tuy nhiên, quản lý hoạt động đào tạo trong Học viện thuộc khối an ninh quốc phòng là một đề tài còn ít đề cập đến hay nói một cách khác là chưa ai đề cập đến. Nhìn chung những biện pháp mà các tác giả đã đề xuất trong luận văn đều 8 mang đậm tính đặc thù, không thể áp dụng hoàn toàn vào Học viện Kỹ thuật Mật mã - Ban cơ yếu Chính phủ chính. Vì vậy việc nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo chuyên ngành an toàn thông tin tại Học viện Kỹ thuật Mật mã là một đòi hỏi hết sức cấp thiết do nhu cầu thực tế đặt ra. Nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực đảm bảo phục vụ có chất lượng cho sự nghiệp an ninh quốc gia và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý và quản lý giáo dục 1.2.1. Quản lý 1.2.1.1. Khái niệm quản lý Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất và lâu đời của con người. Nó "xưa cũ như chính con người vậy" [11,tr.10]. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây người ta mới chú ý đến "chất khoa học" của quá trình quản lý và dần dần hình thành các "lý thuyết quản lý". Có thể điểm qua một số lý thuyết đó như sau: Theo Đại từ điển tiếng Việt: quản lý là "tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, một cơ quan", là "trông coi, gìn giữ và theo dõi việc gì" [23, tr.1363]. Nghĩa Hán Việt của "Quản" là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định, duy trì sự vật ở trạng thái ổn định; quá trình "Lý" bao gồm sửa sang, sắp đặt công việc, đổi mới, đưa hệ thống đó vào phát triển. Trong "quản" phải có "lý" thì toàn hệ mới có thể phát triển, trong "lý" phải có "quản" thì sự phát triển của hệ mới ổn định, bền vững [23, tr.2]. Hai quá trình này phải được gắn bó chặt chẽ với nhau thì toàn hệ mới đạt được thế cân bằng động, tồn tại và phát triển phù hợp trong mối tương tác với các yếu tố bên trong và bên ngoài. K.Marx: "Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung 9 phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng" [6, tr.480]. F.W. Taylor (1856 - 1915) là người được coi là cha đẻ của thuyết quản lý khoa học đã cho rằng cốt lõi trong quản lý là: "Mỗi loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hóa và phải quản lý chặt chẽ". "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất" [11, tr.1]. Henri Fayol (1841 - 1925) thì lại xuất phát từ các loại hình hoạt động quản lý khi cho rằng: "Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra" [11, tr.46]. H.Koontz (Mỹ): "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm (tổ chức). Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất" [11, tr.33]. Mary Parker Follett (1868 - 1933) đã có những đóng góp lớn lao trong thuyết hành vi trong quản lý khẳng định: "Quản lý là một quá trình động, liên tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại" [11, tr.33]. Theo Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là sự tác động có mục đích tới tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục đích đã định trước" [20, tr.23]. Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: hoạt động quản lý là các "tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức" [10, tr.9]. 10 Từ những quan niệm trên, ta thấy bản chất chung của khái niệm “quản lý là một quá trình tác động có ý thức, có định hướng và có tổ chức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả nhất trong điều kiện biến động của môi trường”. Quản lý tồn tại trong mọi quá trình hoạt động xã hội và là điều kiện quan trọng để tổ chức vận hành và phát triển. Trong khái niệm quản lý ta cần chú ý đến các yếu tố sau: - Chủ thể quản lý: là một cá nhân, một nhóm người hay tổ chức tạo ra những tác động quản lý. Nó trả lời câu hỏi: ai quản lý? - Khách thể quản lý: là đối tượng tiếp nhận các tác động quản lý. Khách thể quản lý có thể là người (trả lời câu hỏi: quản lý ai?), là vật (trả lời câu hỏi: quản lý cái gì?) hoặc sự việc (trả lời câu hỏi: quản lý việc gì?). Về khái niệm quản lý, các tác giả với các quan điểm tiếp cận khác nhau, đã đưa ra nhiều ý kiến đa dạng. Tuy nhiên, các ý kiến đều có một điểm chung là mô tả, giải thích về bản chất, về lý luận và các kỹ thuật làm cơ sở cho hoạt động quản lý, ta thấy nổi bật lên các yếu tố của quản lý, phương pháp quản lý, công cụ quản lý, đối tượng bị quản lý (gọi là đối tượng quản lý), khách thể quản lý và mục tiêu quản lý. Trong thực tiễn, các yếu tố trên không những không tách rời nhau mà còn có quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau. Chủ thể quản lý bằng phương pháp và công cụ quản lý cụ thể tác động lên đối tượng bị quản lý, nơi tiếp nhận tác động trực tiếp của chủ thể quản lý hoạt động theo một quỹ đạo nhằm cùng thực hiện mục tiêu của tổ chức. Khách thể quản lý nằm ngoài hệ thống giáo dục và hệ thống quản lý giáo dục, chẳng hạn môi trường bên ngoài nhà trường , nó là hệ thống khác hoặc các ràng buộc của môi truờng … Nó có thể chịu tác động (gián tiếp) hoặc tác động trở lại đến hệ thống giáo dục và hệ thống quản lý giáo dục. Vấn đề đặt ra là đối với chủ thể quản lý: Làm thế nào 11

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét