Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016
Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trung tâm học tập cộng đồng trên địa bàn huyện Yên Hưng - tỉnh Quảng Ninh
sở giáo dục không chính quy của Thái Lan đƣợc tổ chức theo hệ thống từ
Trung ƣơng tới địa phƣơng gồm các Trung tâm nguồn ở cấp vùng (gồm 7
Trung tâm), các Trung tâm giáo dục không chính quy cấp tỉnh (gồm 76 Trung
tâm), các Trung tâm giáo dục không chính quy cấp huyện (gồm 877 Trung
tâm) và Trung tâm học tập cộng đồng ở cấp xã (gồm 8.577 Trung tâm).
Với cách tổ chức hệ thống nhƣ vậy, các TTHTCĐ ở Thái Lan đƣợc hỗ
trợ điều phối các hoạt động về tài chính, đƣợc điều phối về cán bộ quản lý,
nhân viên, giáo viên và đƣợc tập huấn cán bộ, hỗ trợ học liệu từ các Trung tâm
nguồn, các Trung tâm giáo dục không chính quy cấp tỉnh và cấp huyện.
TTHTCĐ tổ chức ở cấp xã đƣợc đánh giá là thực sự cần thiết để cung cấp kiến
thức và thông tin cho mọi ngƣời dân sống trong cộng đồng.
Các của TTHTCĐ ở Thái Lan thực hiện 3 chức năng chủ yếu là:
- Giáo dục cơ sở (xóa mù chữ, phổ cập tiểu học và trung học cơ sở),
- Giáo dục nghề nghiệp (mở lớp huấn luyện kỹ năng ngắn ngày và giáo
dục nghề cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông);
- Thông tin, tƣ vấn (qua các hoạt động và qua tài liệu).
Kết quả nghiên cứu về mô hình TTHTCĐ ở Thái Lan đã khẳng định các
nguyên tắc cơ bản để điều hành và quản lý hoạt động của TTHTCĐ là:
- TTHTCĐ là của dân, do dân và vì dân. Ngƣời đứng đầu trung tâm phải
có định hƣớng cụ thể để phát triển trung tâm, đảm bảo để mọi ngƣời đều có cơ
hội học tập.
- TTHTCĐ hoạt động theo cơ chế mở. Mọi ngƣời trong cộng đồng có
thể đến học bất cứ lúc nào.
- TTHTCĐ phải trở thành cầu nối thông tin giữa mọi ngƣời, gắn đƣợc
việc học chữ với việc thực hành trong cuộc sống hàng ngày.
- TTHTCĐ phải có mạng lƣới liên kết với các cơ sở giáo dục, với các tổ
chức xã hội, các cơ sở sản xuất và các chuyên gia trên các lĩnh vực.
(Xin xem mô hình quản lý và tác động của TTHTCĐ ở Thái Lan tại Sơ đồ 1.2)
14
Sơ đồ 1.2: MÔ HÌNH QUẢN LÝ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TTHTCĐ Ở THÁI LAN
Trung tâm nguồn
(cấp vùng)
Trung tâm
GDKCQ cấp huyện
Các giáo viên,
Cộng tác viên
Các tổ chức
xã hội
Trung tâm
học tập
cộng đồng
Các
Các CSGD
chuyên gia
tại cộng đồng
Các cơ sở
liên kết khác
Các thành viên
trong cộng đồng
1.1.1.3. Trung tâm học tập cộng đồng ở Ấn Độ
Từ năm 1988, Chính phủ Ấn Độ đã quyết định thành lập hàng loạt các
Jana Shikshan Nilayams (viết tắt là JSNs - tiếng Ấn Độ có nghĩa là Trung tâm
học tập) trong cả nƣớc với mô hình cứ 4-5 làng (khoảng 5.000 dân) có một
Trung tâm nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng cho giáo dục sau xoá mù chữ và
GDTX. Tới những năm 1990-1991, chính sách giáo dục quốc gia của Ấn Độ
đề ra thêm nhiều chƣơng trình để đẩy mạnh giáo dục sau xóa mù chữ và
GDTX, trong đó có chƣơng trình thành lập các Trung tâm GDTX (Continuing
Education Centres - CECs). Các Trung tâm GDTX này không chỉ phục vụ cho
những ngƣời mới biết chữ mà cho cả trẻ em, thanh niên thất học và tất cả
thành viên trong cộng đồng có nhu cầu học tập suốt đời.
Các Trung tâm GDTX (CECs) ở Ấn Độ thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu
là: Mở các lớp buổi tối để củng cố kỹ năng biết chữ; Tổ chức đọc sách hoặc
cho mƣợn sách; Tổ chức thảo luận những vấn đề của cộng đồng; Tổ chức
huấn luyện ngắn ngày về kỹ thuật sản xuất và đời sống; Tổ chức các hoạt động
thể thao, văn hóa, giải trí; Tổ chức thông tin tuyên truyền ...
15
Về mặt tổ chức và quản lý, các Trung tâm GDTX (CECs) của Ấn Độ
đƣợc thành lập theo quy mô cấp xã (dân số khoảng 1500-2000 ngƣời trong đó
có khoảng 500 ngƣời mới biết chữ), và chủ yếu do cộng đồng tự cam kết
thành lập và quản lý.
1.1.1.4. Trung tâm học tập cộng đồng ở Myanmar
Mô hình trung tâm học tập cộng đồng bắt đầu đƣợc xây dựng tại
Myanmar từ năm 1994 với sự giúp đỡ của UNDP, UNESCO và các tổ chức
phi chính phủ khác. Tính đến năm 2007, Myanmar đã có 480 Trung tâm.
Mục đích của các TTHTCĐ tại Myanmar là: Khuyến khích sự tham gia
của cộng đồng trong việc hạn chế tỷ lệ bỏ học và nâng cao tỷ lệ đến trƣờng
tiểu học của trẻ em; Tập trung vào hoạt động tăng thu nhập và nâng cao chất
lƣợng cuộc sống của ngƣời dân; tạo cơ hội cho ngƣời dân đƣợc tiếp cận với
thông tin. Ở Myanmar, TTHTCĐ có thể vừa là một trung tâm thông tin, trung
tâm huấn luyện nghề nghiệp vừa là một câu lạc bộ để trao đổi, thảo luận, một
thƣ viện, nơi đọc sách báo hoặc trung tâm văn hoá, vui chơi, giải trí của cộng
đồng, có vai trò to lớn trong việc tạo cơ hội học tập tiếp tục cho trẻ em và
ngƣời lớn.
Về măt tổ chức và quản lý, TTHTCĐ tại Myanmar đƣợc xác định là
một cơ sở giáo dục tại làng xã, nằm ngoài hệ thống giáo dục chính quy, đƣợc
nhân dân địa phƣơng thành lập và quản lý, nhằm cung cấp cho nhân dân
những cơ hội học tập đa dạng để cải thiện chất lƣợng cuộc sống và phát triển
cộng đồng.
1.1.1.5. TTHTCĐ ở các nước khác trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Trong khuôn khổ Chƣơng trình Châu Á - Thái Bình Dƣơng về Giáo dục
cho mọi ngƣời (APPEAL), Dự án phát triển TTHTCĐ đã đƣợc triển khai từ
năm 1998. Đến năm 2005, chƣơng trình phát triển TTHTCĐ của UNESCO đã
đƣợc triển khai tại 20 quốc gia trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng .
Ở các quốc gia này, TTHTCĐ đã phát huy vai trò phục vụ cho các đối
tƣợng ngƣời lớn, thanh thiếu niên thuộc mọi đối tƣợng trong cộng đồng thông
16
qua các hoạt động xóa mù chữ và GDTX. TTHTCĐ giúp ngƣời học có đƣợc
thông tin chủ yếu và những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho sự phát triển của
cá nhân, gia đình và xã hội.
Tóm lại, nghiên cứu sự phát triển mô hình tổ chức và quản lý của các
TTHTCĐ trên thế giới chúng tôi thấy TTHTCĐ ở các nƣớc dù có tên gọi khác
nhau nhƣng đều thể hiện rõ là một cơ chế có hiệu quả để thực hiện xoá mù
chữ và GDTX và có vai trò quan trọng trong các hoạt động giáo dục, y tế,
nông nghiệp, phát triển cộng đồng - nhất là ở nông thôn. Đúng nhƣ “ Khuyến
nghị của Hội đồng quốc tế về giáo dục cho thế kỷ 21 gửi UNESCO 1996” đã
khẳng định: “Rõ ràng cộng đồng địa phƣơng bao giờ cũng giữ vai trò quan
trọng hàng đầu đối với bất kỳ một chiến lƣợc cải cách nào.Vì vậy, một trong
những giải pháp quan trọng để phát triển cộng đồng và để cộng đồng tham gia
vào quá trình cải cách giáo dục cần thiết phải xây dựng và phát triển các cơ sở
giáo dục cộng đồng” [31-Tr.19]. TTHTCĐ đã và đang đƣợc phát triển ngày
càng rộng khắp ở các nƣớc nhƣ một hệ thống cơ sở tổ chức học tập cho cộng
đồng phù hợp với xu thế giáo dục mới. Sự ra đời và phát triển của mô hình
TTHTCĐ ở Việt Nam cũng nằm trong xu thế đó.
1.1.2. Vấn đề nghiên cứu, phát triển mô hình TTHTCĐ ở Việt Nam
Mô hình Trung tâm học tập cộng đồng của Việt Nam bắt đầu đƣợc thử
nghiệm từ năm 1997 do Viện Khoa học giáo dục Việt Nam thiết kế với sự hỗ
trợ kinh nghiệm của một số tổ chức nƣớc ngoài nhƣ UNESCO Bangkok, hiệp
hội các câu lạc bộ UNESCO Nhật Bản và UNICEF Việt Nam. Sự nỗ lực của
các tổ chức xã hội (trƣớc hết là Hội Khuyến học Việt Nam) và ngành Giáo dục
– Đào tạo, đặc biệt là sự thừa nhận vai trò, vị trí nhƣ một cơ sở giáo dục nằm
trong hệ thống giáo dục quốc dân (Luật Giáo dục - 2005) đã làm cho hệ thống
TTHTCĐ phát triển rất nhanh. Từ 10 TTHTCĐ đƣợc thử nghiệm trong những
năm 1997-2000 tại một số tỉnh đại diện cho các vùng miền trong cả nƣớc
17
(gồm: Hà Nội, Hoà Bình, Lai Châu, Thái Bình, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Kon
Tum và Lao Cai), năm 2001 cả nƣớc đã có 125 TTHTCĐ, đến năm 2005 có
5.331 TTHTCĐ và tại thời điểm tháng 6/2009 đã có 9.551 TTHTCĐ (chiếm
86,41% so với tổng số 11.059 xã, phƣờng, thị trấn của cả nƣớc). Mô hình
TTHTCĐ đã đƣợc thực tiễn chấp nhận và đƣợc triển khai đều khắp trên cả
nƣớc trong đó có 29 tỉnh, thành phố đạt tỷ lệ 100% và 39 tỉnh, thành phố đạt tỷ
lệ trên 95% đơn vị cấp xã đã thành lập TTHTCĐ.
Về mặt tổ chức và quản lý, mô hình TTHTCĐ của Việt Nam đƣợc thiết
kế và phát triển trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nƣớc trên thế giới
(nhƣ đã trình bày ở trên), đồng thời có sự kế thừa và phát huy các yếu tố tích
cực của các mô hình thiết chế văn hoá - giáo dục tại cộng đồng đã có từ trƣớc
đây ở trong nƣớc (nhƣ Nhà Rông, Đình làng,..). Do đó, TTHTCĐ đang đƣợc
xây dựng và phát triển ở Việt Nam vừa có sự phù hợp với những điều kiện,
hoàn cảnh mới và mang ý tƣởng của thời đại, vừa có yếu tố truyền thống. (Xin
xem sơ đồ quản lý TTHTCĐ ở địa phương tại Sơ đồ 1.3)
Sau hơn mƣời năm phát triển, hệ thống TTHTCĐ ở Việt nam đã đƣợc
đánh giá là một mô hình cơ sở giáo dục mới với những điểm mạnh, điểm yếu
và đang đứng trƣớc những cơ hội và thách thức khá rõ rệt. Cụ thể là:
i) TTHTCĐ ở nƣớc ta đã khẳng định những điểm mạnh chủ yếu sau:
+ Đã tạo ra cơ hội học tập thƣờng xuyên, học tập suốt đời cho ngƣời dân
ngay tại cộng đồng do đƣợc tổ chức ngay tại cơ sở làng xã, với phƣơng châm
“cần gì, học nấy”;
+ Góp phần nâng cao chất lƣợng cuộc sống của ngƣời dân ở cộng đồng
cả về nâng cao dân trí, cải thiện dân sinh, thực hiện dân quyền, ổn định và
nâng cao chất lƣợng dân số và cải thiện môi trƣờng dân cƣ;
+ Góp phần phát triển cộng đồng bền vững thông qua việc đào tạo, bồi
dƣỡng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế địa phƣơng, thực hiện các mục
tiêu phát triển văn hóa - xã hội của địa phƣơng và nâng cao nhận thức, kỹ năng
của ngƣời dân trong việc thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trƣờng.
18
ii) Những hạn chế cần khắc phục:
+ Chƣa thực sự tạo cơ hội học tập thƣờng xuyên, học tập suốt đời cho
tất cả mọi ngƣời (mới chỉ thu hút đƣợc khoảng 20-40% ngƣời dân tham gia);
+ Chất lƣợng, hiệu quả và tính bền vững của nhiều THTCĐ còn hạn chế
(Chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp và hình thức tổ chức của nhiều
TTHTCĐ chƣa đa dạng, thiết thực, phù hợp với nhu cầu của ngƣời dân và các
vấn đề của cộng đồng; Địa điểm đặt TTHTCĐ chƣa thật sự thuận lợi đối với
ngƣời dân ở các địa bàn miền núi, hải đảo có địa hình phân tán...);
+ Việc giám sát, đánh giá chƣa đƣợc quan tâm và còn nhiều bất cập
iii) Những cơ hội đang mở ra đối với hệ thống TTHTCĐ hiện nay là:
+ Ngƣời dân ngày càng ý thức đƣợc tầm quan trọng và có nhu cầu học
tập thƣờng xuyên, học tập suốt đời;
+ Đảng và Nhà nƣớc đã quan tâm và có nhiều chủ trƣơng chính sách
(TTHTCĐ đã đƣợc thể chế hóa trong Luật Giáo dục; Đã có “Quy chế tổ chức
và hoạt động” cụ thể; Đã đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ ban đầu và hỗ thợ thƣờng
xuyên về kinh phí...);
+ Việc giáo dục, tuyên truyền cho ngƣời dân ở cơ sở ngày càng đƣợc
các ban, ngành, đoàn thể, chƣơng trình, dự án coi trọng;
+ Vấn đề học tập thƣờng xuyên, học tập suốt đời ngày càng đƣợc các tổ
chức quốc tế quan tâm.
iiii) Những thách thức đang đặt ra đối với hệ thống TTHTCĐ hiện nay :
+ Nhận thức của xã hội, các cấp chính quyền và ngƣời dân đối với vị trí,
vai trò của THHTCĐ còn chƣa đầy đủ, sự quan tâm chỉ đạo của nhiều địa
phƣơng và sự tích cực chủ động tham gia của nhiều ngƣời dân còn hạn chế; Sự
phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong việc tổ chức hoạt động tại các
TTHTCĐ chƣa chặt chẽ và thiếu hiệu quả;
+ Cơ sở pháp lý, chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý và giáo viên
của THTCĐ chƣa đầy đủ, thiếu thống nhất và chƣa phù hợp;
+ Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên của TTHTCĐ còn thiếu về số
19
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét