Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2016

Nghiên cứu cải tiến quy trình tổ chức kiểm tra đánh gia kết quả học tập của sinh viên tại Khoa Du lịch - Viện Đại học Mở Hà Nội

cạnh vẻ kiến thức, kỹ năng và thái độ của sinh viên đối chiếu với những chỉ tiêu của mục đích dự kiến, mục tiêu của môn học. ♦ Công cụ đánh giá: Khi đánh giá người ta thường dựa vào các thông tin, dữ liệu.sau: - S ố đo: khi chấm bài giảng viên xác định bằng đáp án và biểu điểm rồi dựa vào đó mà cho điểm từng bài làm. Qua đó sẽ xác định được điểm của từng học sinh. - Lượng giá: Dựa vào số đo người ta đưa ra những kết luận ước lượng trình độ kiến thức, kỹ năng của một học sinh. Số lượng giá là bước trung gian giữa số đo và đánh giá, nó làm sáng tỏ trình độ (tương đối) của một sinh viên trong tập thể lớp, khoá so với yêu cầu của chương trình môn học, nhưng nó chưa trực tiếp nói lèn thực chất trình độ của sinh viên đó. Từ số đo và lượng giá chúng ta tiến hành đánh giá iheo chuẩn, là so sánh số đo của mỗi cá nhân trong tổng hợp chung của lớp. Lượng giá theo tiêu chí: đây là việc đối chiếu số đo của một sinh viên với những tiêu chí để ra. ♦ Các loại đánh giá: Trong giáo dục có 6 nội dung đánh giá chính: 1/đánh giá mục tiêu đào tạo đáp ứng với yêu cẩu của kinh tế - xã hội, 2/đánh giá chương trình/ nội dung đào tạo, 3/đánh giá quá trình đào tạo, 4/đánh giá sản phẩm đào tạo đáp ứng mục tiêu đào tạo, 5/đánh giá tuyển dụng, 6/đánh giá kiểm định công nhận cơ sở đào tạo. Bản thân, trong đánh giá quá trình đào tạo (nội dung 4/) lại bao gồm các loại đánh giá khác nhau tuỳ theo mục tiêu đánh giá đó là đánh giá xếp loại, đánh giá chẩn đoán, đánh giá hình thành và đánh giá tổng kết. - Đánh giá xếp loại: được dùng để đánh giá tình trạng đầu vào của sinh viên, nó xác định kiến thức và kỹ năng mà người học có được và là cần thiết khi bắt đầu giảng dạy một lĩnh vực chuyên môn nào đó. 10 Đánh giá xếp loại chỉ ra cho giáo viên những quan tâm và đặc tính cá nhân của người học và những thông tin này sẽ giúp cho người giáo viên sứ chins phương pháp giảng dạy có lợi nhất cho học sinh. Trắc nghiệm khả năng, trắc nghiệm khả năng sẩn sàna, các bảng liệt kê và quan sát là những dạng của đánh giá xếp loại. - Đánh giá quá trình: cung cấp cho sinh viên sự phản hồi đối với thành công hay thất bại của họ trong quá trình họ vươn tới các mục tiêu 2Ĩảng dạy, nó chỉ ra các sai lầm trong quá trình học mà họ cần sửa chữa. Đồng thời nó cũng góp phần tăng cường cho sự thực hiện thành công. Đối với giáo viên, đánh giá quá trình cung cấp thông tin để tiến hành công việc giảng dạy và giúp đỡ sinh viên yếu kém có hiệu quả hơn -Đánh giá chẩn đoán: được sử dụng để phát hiện các khó khăn trong học lập của sinh viên. Các khó khăn này không được phát hiện bởi các trắc nghiệm quá trình hoặc không được kiểm tra bởi việc giảng dạy dành cho học sinh yếu kém và các hiệu chính giảng dạy khác. Nó cũng làm bộc lộ ra những nguyên nhân tiềm ẩn của các khó khăn trong học tập. Bởi vậy trác nghiệm chẩn đoán là toàn diện và tỉ mỉ hơn. -Đánh giá tổng kết: xác định phạm vi mà các mục tiêu giảng dạy đã đạt được và được sử dụng để đưa ra đánh giá kết quả cho toàn khoá học. Các kỹ thuật để nhận được thông tin về thành quả học tập của sinh viên bao gồm các báo cáo miệng, các đồ án, các bài thi học kỳ, khoá luận và các trắc nshiộm thành quả học tập do giáo viên soạn thảo [12]. 1.2.3. C ác hình thức kiểm tra - đánh giá: Trong giáo dục có những hình thức kiểm tra - đánh giá sau: 1/trác nghiệm quan sát, 2/trấc nghiệm vấn đáp, 3/trắc nshiệm tự luận (luận đề), 4/trắc nghiệm khách quan. Trong đó hai hình thức được sử dụng phổ biến ỉà trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. 11 1.2.3.1. Trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm khách quan chia làm bốn loại: ♦ L oại trắc nghiệm điều khuyết hay cảu trả lòi ngắn : loại này thí sinh viết câu trả lời khoảng từ một đến tám hay mười chữ, các câu trả lời thường thuộc loại đòi hỏi trí nhớ. Tuy nhiên trong trường hợp toán học hay khoa học tự nhiên câu trả lời có thể đòi hỏi óc suy luận hay sáng kiến. [8] Ưu điểm của loại này là sinh viên có cơ hội trình bày những câu trả lời khác thường phát huy óc sáng tạo; phương pháp châm điểm nhanh hơn và đáng tin cậy hơn với loại tự luận (luận đề) mặc dù việc cho điểm có phần rắc rối hơn so với trắc nghiệm khách quan. Tuy nhiên, sinh viên không có cơ hội đoán mò như trường hợp trắc nghiệm khách quan khác. Loại trắc nghiệm này giúp cho giáo viên dễ soạn và có thể lấy mẫu các điều đã học một cách tiêu biểu hơn so với loại trắc nghiệm luận đ ề...Ư u thế của trắc nghiệm điều khuyết hay có câu trả lời chính là có câu trả lời ngắn, thích hợp cho những vấn đề tính toán, cân bằng phương trình hoá h ọc... đánh giá mức hiểu biết các nguyên lý, giải thích dữ kiện, diễn đạt ý kiến, thái độ. Nó giúp sinh viên luyện trí nhớ khi học. Bên cạnh những ưu điểm trên, hình thức kiểm tra này cũng có những hạn chế nhất định đó là khi soạn thảo, các giáo viên thường có khuynh hướng trích nguyên văn các câu từ sách giáo khoa. Giáo viên có thể hiểu sai, đánh giá thấp các câu trả lời sáng tạo, khác với ý giáo viên nhưng vẫn hợp lý, nhất là khi họ đọc thêm sách, tài liệu ngoài giáo trinh (hay gặp gõ'' ở các nhóm khoa học xã hội, nhân văn). Nhiều câu hỏi loại này thường ngắn gọn, có khuynh hướng đề cập đến các vấn đề không quan trọng hoặc không liên quan nhau. Phạm vi khảo sát thường chỉ giới hạn vào chi tiết, các sự kiện vụn vặt. Các yếu tố: chữ viết, lỗi chính tả có để ảnh hưởng tới việc đánh giá câu trả lời. Chấm bài mất nhiều thời gian hơn so với loại trắc nghiệm “đúng - sai” có nhiều câu trả lời cho sấn để chọn. Khi có nhiều chỗ trống trong câu hỏi, học sinh có thể rối trí. Kết quả là điểm số thường có độ 12 tương quan cao với mức thông minh hơn là với thành quả học tập. Do đó độ siá trị của bài thi giảm đối với việc đo tiếp thu kiến thức vì thực ra khi đó giáo viên đang đo lường mức độ thông minh... Nhưng, mặt khác loại cáu hỏi này lại đáp ứng được khả năng đo lường năng lực nhận thức và năng lực tư duy cao của người học qua trí thông minh. ♦ Loại đúng - sai. Loại này sinh viên đọc những câu phát biểu và phán đoán xem nội dung hay hình thức của câu ấy đúng hay sai. Loại cãu hỏi này phù hợp nhất cho việc khảo sát trí nhớ những sự kiện, hay nhận biết các sự kiện. Cũng giống như loại trắc nghiệm điền khuyết hay có câu trả lời, loại đúng sai cũng có những un điểm và hạn chế nhất định. Đàv là loại câu hỏi đơn giản nhất để trắc nghiệm kiến thức và các sự kiện, loại này giúp cho việc trắc nghiệm bao gồm một lĩnh vực rộng lớn trong thời sian rất ít. Trắc nghiệm đúng - sai tốn ít thời gian chuẩn bị hơn so với loại câu hỏi có nhiều phương án lựa chọn. Nó đảm bảo được tính khách quan khi chấm bài (giống các loại trắc nghiệm khách quan khác). Hạn chế chủ yếu của hình thức này là có thể khuyến khích sự đoán mò như học sinh có khuynh hướng đoán may rủi để có 50% hy vọng trả lời đúng mặc dù eiáo viên có thể áp dụng công thức hiệu chỉnh. Do yếu tô'' đoán mò nên khó dùng để chẩn định yếu điểm của học sinh. Người soạn thảo phải xác định rõ ràng tác giả, xuất xứ ý kiến, tư tưởng, lời nói... để tránh tối nghĩa, khó hiểu đối với các câu hỏi thuộc các môn khoa học nhân văn, xã hội, nghệ thuật (vì có nhiều quan điểm khác nhau). Loại câu hỏi đúng - sai có độ tin cậy thấp, học sinh có thể được điểm cao do đoán ra câu trả lời do đó để có độ tin cậy không tương đương với các loại trắc nghiệm khách quan khác, độ dài của bài loại “đúng - sai” phải dài hơn nhiều [8]. Những giáo viên dùng loại câu hỏi này thường có khuynh hướng trích nguyên văn các câu trong sách, và đo đó sinh viên sẽ tập thói quen học thuộc hơn là tìm hiểu, suy nghĩ. Sinh viên phải chọn, quyết định giữa hai điều: đúng - sai quá hạn hẹp. Việc này làm sinh viên giỏi khó chịu hoặc 13 thất vọng khi họ thấy phải có điều kiện rõ ràng mới quyết định xem câu phát biểu đúng hay sai, hoặc có thể có những trường hợp ngoại lệ, chứ không phải chỉ có hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai. ♦ Loại ghép đôi (hay xứng hợp): loại này thí sinh tìm cách ghép mỗi từ hay câu trả lời trong cột hai với một từ hay câu xếp trong cột thứ nhất. Số câu hoặc từ trong cột thứ hai có thể ít hơn, bằng hoặc nhiều hơn các câu hoặc từ trong cột thứ nhất, cột thứ hai càng nhiều, độ khó càng tăng. Các câu hỏi loại này mang nhiều tính chất của loại câu hỏi có nhiều lựa chọn. [8] Ưu điểm của loại này chính là ở chỗ rất thích hợp với các câu hỏi bắt đầu bằng những chữ “ai”, “ở đâu”, “khi nào”, “cái gì” các giáo viên có thể dung loại này để cho sinh viên ghép một số từ kê trong cột thứ nhất với ý nghĩa kê trong cột thứ hai. Câu hỏi ghép đôi dễ viết, dễ dùng, đặc biệt rất thích hợp khi cần thẩm định các mục tiêu ở mức tư duy thấp. Khi được soạn kỹ, đòi hỏi học sinh phải chuẩn bị tối trước khi thi, thì yếu tố đoán mò, may rủi giảm đi nhiều. Loại ghép đôi thường được xem như thuận tiện nhất trong việc đánh giá khả năng nhận biết các hệ thức, hay xác lập các mối liên quan. Nếu được soạn thảo kỹ, loại này còn có có thể được dùng như loại có nhiều câu chọn trả lời cho sẩn để trắc nghiệm những mức trí năng cao hơn. Hạn chế của câu hỏi ghép đôi là vì muốn soạn thảo câu hỏi để đo các mức kiến ihức cao đòi hỏi nhiều công phu nên một số giáo viên chỉ dùng loại câu hỏi ghép đôi để trắc nghiệm lượng các kiến thức về: ngày, tháng, tên, định nghĩa, biến cố, công thức, dụng cụ ... để lập các hệ thức, phân loại. Trắc nghiệm loại ghép đôi cũng không thích hợp cho loại thẩm định các khả năng như: sắp đặt và áp dụng kiến thức, nguyên lý. Người học sẽ mất nhiều thời gian để đọc cả một cột dài mỗi lẩn muốn ghép một đôi nếu danh sách trong cột quá dài (như gồm 25 phần tử chẳng hạn). Mặc dù so với tự luận, thì loại này có tính khách quan hơn khi chấm bài, nhưng so với loại “đúng - sai” và loại nhiều lựa chọn, thì loại này vẫn thiếu yếu tố 14 khách quan lúc chấm điểm, khó thiết kế để dùng phương pháp chấm bans máy. ♦ Loại cậu hỏi có nhiều phương án trả lòi đ ể lựa chọn. (MCQ). Loại này gồm một câu dẫn hay câu hỏi đi với nhiều câu chọn trả lời để thí sinh lựa chọn khi làm bài. Các câu trả lời cho mỗi câu hỏi có dạng giống nhau, gồm một từ, một cụm từ hay một câu hoàn chỉnh. Thí sinh thường phải chọn một câu trả lời đúng hay hợp lý nhất. Đây là loại trắc nghiệm khách quan thông dụng nhất. Các câu hỏi loại này có thể dùng thẩm định trí nhớ, mức hiểu biết, khả năng áp dụng, phân tích, tổne hợp hay ngay cả khả năng tư duy phán đoán cao hơn. [8] Loại câu hỏi này có nhiều ưu điểm: Có thể đo được khả năng tư duy khác nhau. Có thể dùnơ loại này để kiểm tra, đánh giá những mục tiêu giảng dạy khác nhau. Độ tin cậy cao hơn, yếu tố đoán mò may rủi giảm đ i... so với loại đúng sai. Sinh viên phải xét đoán và phân biệt rõ ràng khi trả lời câu hỏi, phải lựa chọn câu trả lời đúng nhất, hay hợp lý nhất trons; số các phương án trả lời đã cho. Tính chất giá trị tốt hơn, độ giá trị cao hơn nhờ tính chất có thể dùng đo những mức tư duy khác nhau... đo khả năng nhớ, áp dụng nguyên lý, suy diễn, tổng quát hoá... Đặc biệt, có thể phân tích được tính chất mỗi câu hỏi (có thể xác định câu dễ, câu khó, độ phân biệt, độ tin cậy... hoặc không phù hợp với mục tiêu cần trắc nghiệm...) và tính chất khách quan khi chấm thi. Bên cạnh những ưu điểm trên, loại trắc nghiệm này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là khó soạn câu hỏi, thí sinh có óc sáng tạo có thể tìm ra những cãu trả lời hay hơn phương án đã cho, nên họ có thể không thoả mãn hay cảm thấy khó chịu. Các câu trắc nghiệm nhiều ỉựa chọn có thể không đo được khả năng phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo một cách hiệu nghiệm bằng câu hỏi loại tự luận soạn kỹ. Các khuyết điểm nhỏ khác: tốn giấy để in câu hỏi, học sinh cẩn nhiểu thời gian để đọc câu hỏi. 15

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét