Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016
Phát triển cán bộ đoàn cấp cơ sở trên địa bàn huyện Sóc Sơn - Hà Nội theo hướng lý thuyết quản lý sự thay đổi
lao động: "Một nghệ sỹ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần
phải có nhạc trưởng”.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Không Tử (551 - 479 TCN) cũng đã xác
định vai trò của người quản lý. Đó là người quản lý mà chính trực thì không
cần phải tốn nhiều công sức mà vẫn có thể "chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”.
Warre Benis, một chuyên gia nổi tiếng về nghệ thuật lãnh đạo đã từng
nói rằng: "Quản lý là một cuộc thử nghiệm gắt gao trong cuộc đời mỗi cá
nhân, và điều đó sẽ mài giũa họ trở thành các nhà lãnh đạo”. Tiếng Việt cũng
có từ "quản lý” và lãnh đạo riêng rẽ giống như "manager” và "leader” trong
tiếng Anh. Trong thực tế chúng ta vẫn thường lẫn lộn hai khái niệm. Không
phải nhà quản lý nào cũng là nhà lãnh đạo và không phải nhà lãnh đạo nào
cũng là nhà quản lý.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, vấn đề quản lý theo khoa học mới
xuất hiện. Người khởi xướng là Fredrich Winslow Taylor với cuốn sách "Các
nguyên tắc quản lý theo khoa học”. Theo ông thì người quản lý phải là nhà tư
tưởng, nhà lên kế hoạch chỉ đạo tổ chức công việc.
Tác giả Nguyễn Minh Đạo trong cuốn "Cơ sở khoa học quản lý” thì
cho rằng quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý về mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế,... bằng
một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và
các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của
đối tượng.
Tác giả Đỗ Hoàng Toàn trong cuốn "Lý thuyết quản lý” cho rằng: "Quản
lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống
để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường”.
Trong cuốn "Khoa học tổ chức và quản lý”, tác giả Đặng Quốc Bảo quan
niệm rằng “Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản
11
lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung và quản lý là một quá trình
lập kế hoạch, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên
trong một tổ chức và sử dụng các nguồn lực của tổ chức để đạt dược những mục
tiêu cụ thể”.
Từ các định nghĩa được nhìn nhận từ nhiều góc độ, chúng ta thấy rằng tất
cả các tác giả đều thống nhất về cốt lõi của khái niệm quản lý, đó là trả lời câu
hỏi: Ai quản lý? (Chủ thể quản lý); Quản lý ai? Quản lý cái gì (Khách thể quản
lý); Quản lý như thế nào? (Phương thức quản lý); Quản lý bằng cái gì? (Công
cụ quản lý); quản lý để làm gì? (Mục tiêu quản lý) và từ đó chúng ta có thể đưa
ra định nghĩa khái quát:
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển,
liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thông nhất,
điều hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục
tiêu xác định trong điều kiện biến động của môi trường.
Theo quan điểm phổ biến hiện nay, quản lý là hệ thống gồm bốn chức
năng: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. Trong một chu trình quản lý cả bốn
chức năng trên phải được thực hiện liên tiếp và đan xen vào nhau; phối hợp bổ
sung cho nhau tạo sự kết nối giữa chu trình này sang chu trình khác theo
hướng phát triển trong đó thông tin luôn là yếu tố xuyên suốt không thể thiếu
trong việc thực hiện các chức năng quản lý và là cơ sở cho việc ra quyết định
trong quản lý. Có thể sơ đồ hoá chu trình quản lý như sau:
Kế hoạch
Tổ chức
Thông tin
Chỉ đạo
12
Kiểm tra, đánh giá
* Khái niệm quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người,
nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa dân
tộc, nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó không ngừng tiến lên.
Giáo dục tồn tại, vận động và phát triển với tư cách là một hệ thống. Theo cách
nói của Marx thì "dàn nhạc” giáo dục trong quá trình tồn tại và phát triển tất
yếu phải có "nhạc trưởng” là quản lý giáo dục. Về quản lý giáo dục cũng có
khá nhiều quan điểm, được hiểu khá rộng trong nhiều phạm vi, từ vĩ mô đến vi
mô và có nhiều định nghĩa như sau:
Trong cuốn: "Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục”, tác giả
M.I Kônđacốp định nghĩa: "Quản lý giáo dục là tập hợp các biện pháp tổ chức
cán bộ, giáo dục, kế hoạch hóa, tài chính nhằm đảm bảo sự vận hành bình
thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở
rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như mặt chất lượng”.
Theo Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho
hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện các
tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất”.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: "Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy
mạnh mẽ công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội”.
Đối với Phạm Mình Hạc thì "Quản lý giáo dục là quản lý trường học,
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình,
tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu
giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng
học sinh”.
13
UNESCO định nghĩa quản lý giáo dục là cách thức điều hành hệ thống
giáo dục, nhất là các quy trình, thủ tục, quy định, quy chế và cách thức vận
hành của hệ thống giáo dục, tất cả các cấu thành hoạt động của hệ thống.
Quản lý giáo dục gồm 3 lĩnh vực:
- Quản lý chính sách (hoạch định chính sách, lập kế hoạch, thực hiện
chính sách và phân bổ nguồn lực).
- Quản lý hành chính (sử dụng nguồn lực tài chính, con người và vật
chất).
- Quản lý sư phạm (sử dụng giáo viên, tổ chức quá trình dạy học, quá
trình giáo dục, thành tích và quá trình học tập.
Ngày nay, giáo dục không còn là một thứ phúc lợi xã hội đơn thuần vì
nó được gắn với quá trình phát triển xã hội. Việc đi học của mỗi người phải là:
"học thường xuyên, học suốt đời”. Do vậy, giáo dục không chỉ giới hạn ở thế
hệ trẻ mà là giáo dục cho mọi người, cho nên quản lý giáo dục cũng có thể
hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Như vậy, ta có thể định nghĩa:
Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp
quy luật của chủ thể quản lý nhằm tổ chức điều khiển hoạt động của khách thể
quản lý thực hiện các mục tiêu giáo dục đề ra. Quản lý giáo dục từ cấp vĩ mô
đến tầm vi mô đều hướng tới sử dụng có hiệu quả những nguồn lực dành cho
giáo dục để đạt được kết quả (đầu ra) có chất lượng cao nhất.
Đặc điểm của quản lý giáo dục.
- Quản lý giáo dục gắn liền với việc quản lý con người, đặc biệt là lao
động sư phạm của người giáo viên. Đặc thù lao động của người giáo viên mà
đối tượng lao động sư phạm là người học với những đặc điểm về tâm sinh lý
lứa tuổi hết sức phức tạp. Người học vừa là đối tượng của hoạt động giáo dục,
vừa là chủ thể của hoạt động giáo dục, do đó kết quả giáo dục không chỉ phụ
thuộc vào bản thân nhà giáo mà còn phụ thuộc vào thái độ của người học. Đây
14
chính là điểm khác biệt của lao động sư phạm so với lao động xã hội nói
chung. Mặt khác phương tiện lao động của giáo viên chủ yếu là phương tiện
tinh thần bằng lời, bằng tấm gương, thái độ, bằng "điểm tựa”, bằng cảm hóa…
Thời gian lao động của người giáo viên cũng khác, nó không được tách bạch,
rạch ròi với thời gian không lao động sư phạm. Với bất kỳ lúc nào, ngay cả khi
nghỉ ngơi, giải trí hay làm việc gia đình, người giáo viên có thể vẫn nghĩ về
công việc sư phạm của mình. Vì vậy, trong công tác quản lý giáo dục cần tạo
điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần cho giáo viên, đặc biệt là tạo điều
kiện để nâng cao tiềm lực của họ, để họ toàn tâm, toàn ý cống hiến cao nhất
cho sự nghiệp "trồng người”.
- Sản phẩm của giáo dục có tính đặc thù nên quản lý giáo dục phải chú ý
ngăn ngừa sự rập khuôn, máy móc trong công việc tạo ra sản phẩm, cũng như
không được phép tạo ra phế phẩm.
- Quản lý giáo dục đòi hỏi cao về tính toàn diện, tính thống nhất, tính
liên tục, tính kế thừa, tính linh hoạt và tính phát triển.
- Quản lý giáo dục và phát triển quan điểm quần chúng, kết hợp nhân tố
bên trong và bên ngoài, trong đó nhân tố bên trong có tính chất quyết định.
Nên cần phải phối hợp chặt chẽ và đồng bộ các lực lượng trong nhà trường, gia
đình và xã hội.
- Quản lí giáo dục là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc, nó thu hút sự
tham gia của rất đông các thành viên xã hội và có ảnh hưởng rất lớn đến mọi
mặt đời sống xã hội.
- Quản lý giáo dục là hoạt động mang tính sáng tạo vì đối tượng của hoạt
động quản lý giáo dục là con người với các mối quan hệ phức tạp của nó. Quản
lí giáo dục phải là một hoạt động mang tính sáng tạo mới phát huy được sự
sáng tạo của con người.
- Quản lí giáo dục thể hiện tính bao hàm giữa học thuật và nghệ thuật, vì
đây là dạng quản lý phức tạp, do quan hệ đa chiều với môi trường xã hội ở
nhiều phạm vi, mức độ, tầng bậc khác nhau.
15
Nội dung quản lý giáo dục: là quản lý các yếu tố cấu thành của hệ thống
giáo dục bao gồm: Mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo
dục, tổ chức giáo dục, người dạy, người học, trường sở và trang thiết bị dạy
học, môi trường giáo dục, các lực lượng giáo dục, kết quả giáo dục.
Bản chất của quản lý giáo dục: là quản lý quá trình sư phạm, quá trình
dạy và học diễn ra ở các cấp học, bậc học và tất cả các cơ sở giáo dục. Từ góc
độ tổ chức và quản lý, quá trình sư phạm là quá trình tạo ra các điều kiện và cơ
hội, đồng thời tổ chức việc sử dụng, tận dụng chúng làm cho người học tiếp
thu, chiếm lĩnh, lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội để phát triển nhân cách tốt
nhất. Nơi thực hiện quản lý quá trình sư phạm có hiệu quả nhất là nhà trường,
một tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo nhân
cách bằng việc truyền thụ những tri thức đạo đức mà nhân loại đã sàng lọc,
chiết suất được cho thế hệ trẻ.
* Quản lý nguồn nhân lực
Trước tiên quản lý nguồn nhân lực vừa là nghệ thuật vừa là khoa học làm
cho những mong muốn của lãnh đạo và nhân viên tương hợp với nhau và cùng
đạt đến mục tiêu.
Thứ hai, quản lý nguồn nhân lực là những hoạt động (một quy trình) mà
nhóm quản lý nhân sự tiến hành triển khai sắp xếp nhân lực nhằm đạt được các
mục tiêu chiến lược của đơn vị. Quy trình này gồm các bước tuyển dụng, quản
lý, trả lương, nâng cao hiệu quả hoạt động và sa thải nhân viên trong đơn vị.
Quản lý trong các tổ chức nhân sự nói chung là hành động đưa các cá nhân
trong tổ chức làm việc cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung. Công
việc quản lý bao gồm 5 nhiệm vụ (theo Henry Fayol): xây dựng kế hoạch, tổ
chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm soát. Trong đó, các nguồn lực có thể được sử
dụng và để quản lý là nhân lực, tài chính, công nghệ và thiên nhiên.
1.1.2. Đội ngũ; Cán bộ Đoàn; Đội ngũ cán bộ Đoàn
1.1.2.1 Đội ngũ
Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa thì "Đội ngũ là một tập hợp số đông
người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực lượng”. Đội ngũ bao
16
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét