Thứ Tư, 15 tháng 6, 2016
Mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của học sinh lớp 5 tại Hà Nội
mối tương quan giữa hai yếu tố là tự đánh giá bản thân và kết quả học tập ở
những học sinh thiên tài. Kết quả cho thấy, không có mối tương quan đáng kể
giữa các biến nay ở học sinh thiên tài (r = 0,02) [78, tr. 39-45].
̀
Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy rằng trong suốt quá trình
nghiên cứu về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập gần
50 năm nay, có nhiều nhà nghiên cứu đã nhận thấy mối tương quan giữa hai yếu
tố này là rất nhỏ, thậm chí, chúng không hề có tương quan với nhau.
b. Những quan điểm cho rằng có mối tƣơng quan chặt chẽ giữa tự đánh
giá bản thân và kết quả học tập
Trong lịch sử nghiên cứu về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân
và kết quả học tập, song song với những nghiên cứu tìm ra rằng không có mối
tương quan hoặc có mối tương quan không đáng kể giữa tự đánh giá bản thân
và kết quả học tập, vẫn luôn có những nhà khoa học tìm ra được kết quả
ngược lại và họ nhận thấy rằng giữa hai yếu tố này có mối tương quan chặt
chẽ với nhau.
Mở đầu cho quan điểm này là tác giả Kifer (1973). Ông cho rằng có
mối tương quan đáng kể giữa thành công trong học tập và tự đánh giá bản
thân. Khi thời gian trôi qua, khoảng cách về quan điểm tự đánh giá của người
thành công trong học tập và không thành công trong học tập được tạo dựng.
Những học sinh có kết quả học tập cao cũng sẽ có tự đánh giá cao và những
học sinh có kết quả học tập thấp sẽ có tự đánh giá thấp. Điều này ủng hộ lý
thuyết thành công hay thất bại trong học tập có ảnh hưởng đến tự đánh giá
bản thân của người học [45].
Cùng chung quan điểm với Kifer, các tác giả Dorle, Rubin và Sandidge
(1977) nhận thấy tự đánh giá bản thân có mối tương quan đáng kể với những
thang đo về thành tích học tập cũng như đánh giá của giáo viên về hành vi và
sự thể hiện của học sinh. Phân tích thống kê chỉ ra rằng có những yếu tố
chung ảnh hưởng đến cả thành tích học tập và tự đánh giá bản thân như khả
năng và tình trạng kinh tế [67, tr. 503-507].
12
Năm 1999, hai nhà nghiên cứu Davies và Brember đã tiến hành một
nghiên cứu kéo dài tám năm về tự đánh giá bản thân, kết quả học tập môn đọc
và môn toán của học sinh năm thứ 2 và năm thứ 6 trong giai đoạn giới thiệu
chương trình giảng dạy quốc gia và quy trình đánh giá vào các trường tiểu
học. Mẫu nghiên cứu là 1.513 học sinh năm thứ hai và 1.488 học sinh năm
thứ sáu. Kết quả cho thấy với học sinh năm hai, không có mối tương quan
đáng kể giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập. Nhưng sau chương trình
kiểm tra quốc gia và với học sinh năm sáu thì mối tương quan này là quan
trọng và đáng kể [27, tr. 145-157].
Tại Việt Nam, khi nghiên cứu về tự đánh giá bản thân của học sinh
trung học phổ thông, tác giả Đỗ Ngọc Khanh (2005) đã đưa ra kết luận: Các
học sinh có học lực yếu có mức độ tự đánh giá bản thân về học tập, cảm xúc
và đạo đức thấp nhất và mức độ này của các em tăng lên dần theo mức độ
tăng của xếp hạng học lực. Tuy nhiên, học lực không ảnh hưởng nhiều đến tự
đánh giá bản thân về khả năng xã hội - giao tiếp, bất kể sức học thế nào học
sinh vẫn có thể giao tiếp bình thường. Mức độ tự đánh giá bản thân về thể
chất theo học lực lại có xu hướng ngược với tự đánh giá bản thân về học tập,
cảm xúc và đạo đức: các em có học lực càng cao thì lại có xu hướng đánh giá
về thể chất của mình càng thấp [8, tr. 109].
Cần lưu ý rằng có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối tương quan giữa tự đánh
giá bản thân và kết quả học tập không có nghĩa rằng đó là mối quan hệ nhân
quả. Giáo viên, bố mẹ và những người xung quanh có thể quan sát thấy tự
đánh giá bản thân và kết quả học tập đi liền với nhau và đưa ra kết luận tự
đánh giá bản thân cao dẫn đến thành tích học tập tốt. Tuy vậy, trên thực tế đó
lại không phải là mối quan hệ nhân quả [18, tr.11].
Qua quá trình tổng quan tài liệu chúng tôi nhận thấy một số nghiên cứu
đã khuyến khích niềm tin tự đánh giá bản thân cao có thể dẫn đến kết quả học
tập cao hơn khi mối tương quan giữa chúng là tích cực và đáng kể. Và ngược
lại, tự đánh giá bản thân thấp cũng có thể ảnh hưởng đến thành tích học tập
13
của học sinh. Từ kết luận này mà ở nhiều nước trên thế giới, các chương trình
xây dựng tự đánh giá bản thân ở học sinh trong các trường học phát triển
mạnh nhằm thúc đẩy sự phát triển nhân cách, trí tuệ và thành tích học tập của
học sinh.
Như vậy, cho tới thời điểm hiện tại, với rất nhiều nghiên cứu đã được
thực hiện trong lĩnh vực tâm lý về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân
và kết quả học tập của học sinh, các nhà khoa học vẫn chưa có được một kết
luận ngã ngũ về mối tương quan này. Những kết quả khác nhau đó đặt ra cho
chúng tôi một băn khoăn là điều gì dẫn đến mối tương quan cao hay thấp giữa
tự đánh giá bản thân và kết quả học tập. Sau đây là một số lý giải về cơ chế
tác động và những yếu tố ảnh hưởng đến mối tương quan này.
1.3.2. Cơ chế tác động trong mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và
kết quả học tập
a. Quan điểm cho rằng không có mối tƣơng quan đáng kể giữa tự đánh
giá bản thân và kết quả học tập
Mức độ tự đánh giá bản thân toàn thể không ảnh hưởng nhiều đến việc
con người muốn hay cố gắng để thành công trong học tập nhưng nó lại ảnh
hưởng đến mong đợi của họ. McFarlin và Blaskovich (1981): cho rằng người
có tự đánh giá bản thân thấp có mong muốn và cố gắng để thành công như bất
cứ ai khác. Nhưng không giống như những người có tự đánh giá bản thân cao,
họ lại mong đợi thất bại. Tuy nhiên, vì sự thực hiện và thành công bị ảnh
hưởng bởi những nỗ lực hơn là mong đợi về thành công hay thất bại, nên có
rất ít sự khác nhau về thành công giữa những người có tự đánh giá bản thân
cao và những người có tự đánh giá bản thân thấp [53, tr. 521-31].
Khác với quan điểm của McFarlin và Blaskovich, hai nhà nghiên cứu
Robinson và Tayler (1991) đã đưa ra cách giải thích về cơ chế bảo vệ tự đánh
giá như sau: dựa vào lý thuyết của họ về nhân d ạng xã hội và áp dụng lý
̣
thuyết này vào việc duy trì tự đánh giá trong các tình huống liên quan đến kết
quả học tập thấp, họ đưa ra một khuôn mẫu cách thức trong đó học sinh giải
14
quyết với những đe doạ tự đánh giá thấp do kết quả học tâp th ấp bằng cách
̣
giữ mình ở ngoài quan niệm văn hoá cho rằng chúng không tốt khi đi học.
Cùng giải thích về mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả
học tập bằng cơ chế bảo vệ của tự đánh giá bản thân, tác giả Harter (1998)
cho rằng học sinh sẽ giảm sự đầu tư vào những lĩnh vực có tính đe doạ đến tự
đánh giá của bản thân và đầu tư vào những lĩnh vực khác có khả năng thành
công cao hơn. Với cách này, những học sinh có kết quả học tập thấp, có thể
bảo vệ tự đánh giá của mình bằng cách giảm sự đầu tư trong lĩnh vực học tập,
thay vào đó sẽ đầu tư vào những lĩnh vực khác mà các em có thể làm tốt như
mối quan hệ liên nhân cách hay trong lĩnh vực thể thao [34, tr. 553-617].
b. Những quan điểm cho rằng có mối tƣơng quan giữa tự đánh giá bản
thân và kết quả học tập
Khi cho rằng có mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả
học tập, các nhà nghiên cứu thường lý giải mối tương quan này thông qua mối
quan hệ giữa nhận thức, cảm xúc và hành vi của con người. Có thể kể tới một
số quan điểm của các nhà tâm lý sau:
Holly (1987) cho rằng sự ảnh hưởng của tự đánh giá đến kết quả học
tập có thể xảy ra theo ba cách thức khác nhau: đầu tiên, cảm giác vô giá trị có
thể dẫn đến trầm cảm và trầm cảm có thể hạn chế việc học tập. Nếu một học
sinh không cảm thấy việc học đáng để mình bỏ công sức, họ sẽ không học hết
khả năng của mình. Thứ hai, nỗi sợ thất bại có thể khiến cho học sinh chùn
bước, trái lại, đối với những học sinh có tự đánh giá cao, các em sẵn sàng nắm
lấy cơ hội thử thách. Những người chấp nhận mạo hiểm có khả năng đạt điểm
cao hơn vì các em có thể đoán được những câu trả lời cho những câu hỏi mà
mình không biết. Cuối cùng, thất bại liên tiếp cộng với cảm giác bất tài có xu
hướng làm cho các em cảm thấy chán nản và mất tinh thần. Một số học sinh
bị thuyết phục rằng các em thiếu khả năng để thành công cho nên việc cố
gắng nhiều hơn cũng không có nghĩa lý gì [39].
15
Những quan điểm chung cho thấy suy nghĩ của chúng ta ảnh hưởng đến
cảm xúc và hành vi của chúng ta. Như một kết quả, hành vi của chúng ta lại
ảnh hưởng đến việc thực hiện hoạt động của chúng ta. Một học sinh nghi ngờ
chính bản thân mình và thiếu sự chấp nhận bản thân không có khả năng đạt
được thành tích học tập xuất sắc. Làm thế nào để một học sinh có thể thiết lập
được mục tiêu thử thách nếu như chúng thiếu ý thức về cái tôi năng lực?
Mark R. Leary và Deborah L. Downs đã nói rằng “Những người cảm thấy có
giá trị, có năng lực có thể đạt được mục tiêu họ đặt ra hơn những người cảm
thấy vô giá trị, yếu đuối, bất lực” [51].
Ở Mỹ, tự đánh giá bản thân là một vấn đề rất được coi trọng trong các
trường học vì họ nghĩ rằng nâng cao tự đánh giá bản thân sẽ mang lại sự cải
thiện trong thành tích học tập. Những cá nhân có tự đánh giá bản thân cao có
thể đặt kỳ vọng cao hơn những cá nhân có tự đánh giá bản thân thấp. Họ kiên
trì đối diện với những thất bại ban đầu và ít khi có cảm giác bất lực và nghi
ngờ bản thân. Theo định nghĩa, học tập là sự tiếp thu kiến thức và kỹ năng mà
một người chưa có, và tự đánh giá bản thân cao có thể giúp ngăn chặn suy
nghĩ về sự thiếu hụt năng lực ban đầu, điều có thể sản sinh ra cảm giác vô
vọng. Tự đánh giá bản thân cao có thể nuôi dưỡng sự tự tin để xử trí các vấn
đề khó khăn và làm tăng khả năng đạt được cảm giác hài lòng của con người
khi làm việc và đạt được thành công [19, tr. 10].
1.3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến mối tương quan giữa tự đánh giá bản
thân và kết quả học tập
a. Văn hoá
Văn hoá ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa tự đánh giá và kết quả học
tập. Điều được coi trọng trong nền văn hoá này có thể không còn được coi
trọng trong nền văn hoá khác. Mỗi nền văn hoá lại có những ưu tiên riêng về
mặt quan điểm giá trị và những khác biệt này mang lại những cách thức tự
đánh giá khác nhau phụ thuộc vào nền văn hoá đó. Ví dụ, học sinh ở
Caribbean thường hình thành hình ảnh bản thân tích cực từ những hành vi đạo
16
đức phù hợp: “Tôi là một người lịch sự và biết cách ứng xử” (Delacourt, &
Others 1997). Ở Mỹ, học sinh có thể có tự đánh giá cao vì chúng có kỹ năng
bắn súng thành thạo hay là những thiên tài âm nhạc. Cũng ở quốc gia này, tác
giả Kester (1994) nhận thấy “Đối với nhiều học sinh người Mỹ gốc Phi, việc
tạo dựng hình ảnh đường phố như trên MTV quan trọng hơn là thành công tại
trường học”. Điều này ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập. Không thể đo
chính xác thành tích học tập khi học sinh không chủ định học một cách tốt
nhất. Một số học sinh nhìn thành tích học tập như một đặc điểm tiêu cực và sẽ
làm bất cứ điều gì để tránh cho mình trông thông minh trước mặt những
người bạn khác. Theo quan điểm này, trong những nền văn hoá coi trọng vấn
đề học tập thì sẽ có mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học
tập cao hơn trong những nền văn hoá không thực sự đề cao việc học tập.
b. Giới tính
Giới tính cũng đóng một vai trò quan trọng trong tự đánh giá. Con trai
có thể hình thành hình ảnh bản thân tích cực từ thể thao và học tập. Con gái
lại nhìn vào nhóm mà chúng thuộc về và mối quan hệ với những người trong
nhóm trước để hình thành hình ảnh bản thân tích cực. Con gái có thể sẽ hành
động một cách thông minh nếu nhóm bạn các em tham gia vào coi trọng khả
năng học tập hơn vẻ bề ngoài [21, tr. 1].
c. Tầm quan trọng của việc học tập đối với mỗi cá nhân
William James cho rằng thành công phải nằm trong lĩnh vực có ý nghĩa
đối với cá nhân thì mới có ý nghĩa đối với tự đánh giá bản thân. Ví dụ, đánh
răng không có ý nghĩa gì đáng kể đối với hầu hết chúng ta nhưng lại là thành
tích cá nhân lớn đối với những người có khuyết tật về tinh thần hoặc thể chất.
Có những thành công cực kỳ đặc biệt ảnh hưởng tới tự đánh giá bản thân theo
một cách vô cùng mạnh mẽ. Jackson (1984) và Mruk (1983) đã chỉ ra rằng
khi chúng ta hướng tới một mục tiêu yêu cầu có cách thức giải quyết vấn đề
hiệu quả hay những trở ngại quan trọng, chúng ta có thể chứng minh năng lực
của mình nhiều hơn trong việc giải quyết những thử thách trong cuộc sống.
17
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét