Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2016
Một số giải pháp quản lý trường trung học phổ thông bán công vùng nông thôn thành phố Hải Phòng
- Tổ chức chỉ đạo việc ĐTBD quản lý nhà giáo và cán bộ QLGD.
- Huy động quản lý sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục .
- Tổ chức QL công tác nghiên cứu khoa học công nghệ trong ngành GD.
- Tổ chức quản lý công tác quan hệ quốc tế về giáo dục .
- Qui định việc tặng danh hiệu vinh dự cho những người có nhiều công lao
đối với sự nghiệp giáo dục .
-Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục giải quyết khiếu
nại tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm về pháp luật, về giáo dục. [18, tr. 5].
Mười nội dung trên đã đảm bảo tính toàn diện và đầy đủ chặt chẽ trong
hệ thống các mục tiêu đặt ra cho GD xét về mặt lý thuyết, trên thực tế khi tiến
hành thực hiện quản lý nhà nước với giáo dục đã nảy sinh những bất cập xét
trong cả hai lĩnh vực quan điểm và hành động thực tiễn.
Ngay từ năm 1973, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã chỉ ra con đường cơ bản
của việc quản lý giáo dục: “Phải quản lý thế nào để thầy dạy tốt, trò học tốt, tất
cả để phục vụ hai tốt đó”.
Hệ thống giáo dục là một bộ phận quan trọng nằm trong hệ thống xã hội,
trong đó quản lý con người là yếu tố trung tâm số một của quản lý giáo dục.
Con người vừa là chủ thể của quản lý vừa là khách thể quản lý; vừa là người
quản lý, vừa là người bị quản lý.
Trình độ và năng lực quản lý của người cán bộ quản lý giáo dục thể hiện
trước hết ở khả năng làm việc với những con người có tính đa dạng, biết phát
huy các mặt mạnh, hạn chế các mặt yếu, động viên họ làm việc tự giác với tinh
thần làm chủ, lao động có năng suất cao. Nhân tố con người trong quản lý giáo
dục không chỉ là đối tượng quản lý mà còn là sản phẩm của quá trình quản lý,
sản phẩm đó chính là con người được đào tạo, nhân cách được hình thành và
phát triển. Vậy quản lý con người là vấn đề có ý nghĩa quan trọng bậc nhất
trong toàn bộ công tác quản lý giáo dục.
1.2. NHÀ TRƯỜNG, CÁC LOẠI HÌNH NHÀ TRƯỜNG
TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
1.2.1. NHÀ TRƢỜNG
11
Nhà trường là cơ sở đào tạo của ngành giáo dục - đào tạo, nơi trực tiếp giáo
dục và đào tạo học sinh, sinh viên, nơi thực thi mọi chủ trương, đường lối,
chính sách, chế độ, nội dung, phương pháp tổ chức GD của Đảng và Nhà nước.
Đó cũng là nơi trực tiếp diễn ra quá trình lao động giảng dạy của thầy, lao động
học tập của trò, hoạt động của bộ máy quản lý nhà trường [32, tr. 1].
Mục tiêu GD của nhà trường là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp. Trung thành với
lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành, bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [5, tr.
8].
Tính chất và nguyên lý giáo dục trong nhà trường của nền giáo dục Việt
Nam và nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy
chủ nghĩa Mác -Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Hoạt động giáo
dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và xã hội.
Phương pháp giáo dục trong nhà trường phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng
say mê học tập và ý chí vươn lên của học sinh.
Nội dung giáo dục trong nhà trường phải đảm bảo tính phổ thông cơ bản,
toàn diện, hướng nghiệp, thiết thực gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với
tâm sinh lí lứa tuổi của người học, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi bậc học,
cấp học. Nhà trường THPT phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở
THCS, hoàn thiện nội dung giáo dục phổ thông đảm bảo chuẩn kiến thức phổ
thông cơ bản, toàn diện. Coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân, bảo
tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại, phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi của người học
Nội dung phương pháp giáo dục phải được thể hiện thành chương trình
giáo dục, chương trình giáo dục phải được cụ thể hoá thành chương trình SGK,
12
giáo trình, phù hợp với mục tiêu giáo dục của từng bậc học, cấp học và từng
trình độ đào tạo, đảm bảo tình ổn định và tính thống nhất [5, tr. 9]
1.2.2. CÁC LOẠI HÌNH NHÀ TRƢỜNG TRONG HỆ
THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
Các loại hình nhà trƣờng đƣợc đề cập đến trong Luật giáo dục
“Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành lập theo quy
hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và được tổ
chức theo các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục.
Nhà trường thuộc các loại hình trường công lập, bán công, dân lập, tư thục
đều chịu sự quản lý Nhà nước của các cơ quan quản lý giáo dục theo sự phân
công, phân cấp của Chính phủ.
Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ
thống giáo dục quốc dân như: có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân mở
trường dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội” [8, tr. 34].
Trong hơn 10 năm qua, ở nước ta đã hình thành một hệ thống trường phổ
thông đa dạng các loại hình: công lập, bán công, dân lập, tư thục. Về tổ chức
hoạt động của các loại trường này có những điểm chung giống nhau và có
những điểm khác biệt. Chỉ có loại hình trường phổ thông công lập là có quy
chế rõ ràng, cụ thể, còn các loại hình: bán công, dân lập, tư thục, về tổ chức
hoạt động trong thực tế có những điểm khác biệt. Quyết định 1931/QĐ của bộ
GD-ĐT và QĐ 39/ GD&ĐT2002, nhiều điểm không còn phù hợp cho các loại
hình trường này, song mỗi loại trường đều tự cải tiến để có một hoạt động linh
hoạt phù hợp với thực tiễn.
Sự giống nhau giữa các loại trƣờng PT trong hệ thống GDQD.
Các trường phổ thông công lập, bán công, dân lập, tư thục đều nằm trong
hệ thống giáo dục quốc dân, dưới sự quản lý của Nhà nước nên chúng đều
mang tính chất và nguyên lý giáo dục chung của nền giáo dục Việt Nam là nền
giáo dục XHCN có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy Chủ nghĩa
Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” [5, tr. 8]. Đó là nền giáo
dục mang tính phổ thông, tính toàn diện, tính lao động hướng nghiệp, dạy nghề.
Vì nhà trường luôn là công cụ phục vụ cho một chế độ xã hội nên chúng mang
13
tính định hướng XHCN, tính thống nhất nhưng đa dạng, mềm dẻo và linh
hoạt...
Như vậy, dù là trường công lập, bán công, dân lập hay tư thục..., các loại
trường này đều giống nhau ở chỗ: phải thực hiện đầy đủ mục tiêu, chương
trình, nội dung giáo dục dạy học, thực hiện nghiêm túc các văn bản, chỉ thị, quy
chế do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành. Ngoài ra, các trường này còn có các
nét đặc trưng riêng.
Sự khác nhau của các loại hình trƣờng THPT trong hệ thống
GDQD.
Trường THPT công lập : Trường THPT công lập do Nhà nước
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, nhà trường thuộc sở hữu Nhà nước. Kinh phí
hoạt động theo dự toán, quyết toán từ nguồn ngân sách Nhà nước, trong đó có
một phần kinh phí do dân đóng góp từ nguồn học phí. Toàn bộ đội ngũ cán bộ,
giáo viên, nhân viên làm việc tại trường được Nhà nước phân công theo chỉ tiêu
tuyển dụng nhân sự.
Trường THPTBC: Trường THPTBC do Nhà nước đầu tư xây dựng
CSVC hoặc quyết định chuyển trường phổ thông công lập thành trường bán
công.Toàn bộ CSVC của trường thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Trường có
01 hiệu trưởng là người biên chế nhà nước, giáo viên , CNV còn lại làm việc
theo ký hợp đồng. Kinh phí điều hành hoạt động nhà trường thực hiện theo
phương thức lấy thu bù chi chịu sự quản lý thanh tra theo pháp lệnh tài chính.
Trường phổ thông trung học dân lập: Trường THPT DL do một tổ chức
có tư cách pháp nhân, có đủ các điều kiện thành lập trường. Tổ chức đứng ra
xin mở trường phải có cơ sở vật chất trang thiết bị để một nhà trường hoạt động
trong điều kiện tối thiểu, cử người trong tổ chức làm Hiệu trưởng hoặc thuê
Hiệu trưởng. Trường hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối thu chi từ nguồn tài
chính do dân đóng góp là học phí. Toàn bộ cơ sở vật chất của nhà trường thuộc
quyền sở hữu của tổ chức đứng tên xin mở trường. Đội ngũ cán bộ, giáo viên,
nhân viên của trường do hiệu trưởng tuyển chọn ký hợp đồng, trả lương và các
quyền lợi khác.
14
Cơ quan ra quyết định thành lập trường có quyền quyết định giải thể nếu
trường không còn đủ khả năng thực hiện mục tiêu giáo dục
Trường phổ thông trung học tư thục: Trường do một cá nhân có đủ tư
cách pháp nhân, có đủ điều kiện được nhà nước cho phép đứng ra mở trường.
Toàn bộ cơ sở vật chất của nhà trường và tổ chức điều hành các hoạt động của
trường - (Điều 17 mục 2b).
Như vậy, các loại trường phổ thông dân lập, bán công, tư thục có những
điểm khác nhau nếu xét dưới góc độ: nguồn kinh phí đầu tư xây dựng trường;
kinh phí hoạt động; quyền chủ quản, sở hữu tài sản; cơ cấu tổ chức hoạt động
của nhà trường.
1.2.3. MỘT SỐ TÍNH CHẤT CỦA CÁC LOẠI TRƢỜNG THPT NGOÀI
CÔNG LẬP NÓI CHUNG VÀ THPT BÁN CÔNG NÓI RIÊNG
Một số tính chất chung
Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, nên các trường phổ thông ngoài
công lập nói chung, các trường THPT BC nói riêng mang tính “nhân dân, khoa
học, hiện đại” [5, tr. 8]. Vì là trường phổ thông nên nó mang tính phổ thông
toàn diện, lao động hướng nghiệp, dạy nghề; vì là ngoài công lập nên cần chú
trọng tính định hướng XHCN, tính thống nhất đa dạng, tính mềm dẻo linh hoạt,
tính hợp pháp, hợp lý. Tính định hướng XHCN được ghi trong Luật Giáo dục
và trong Nghị quyết II của BCH TW Đảng CSVN khóa VIII: “Nhà nước quản
lý mục tiêu, chương trình, nội dung, giáo viên, các hoạt động giáo dục đoàn thể
chính trị trong trường, đảm bảo nhà trường thực hiện đúng đường lối giáo dục
của Đảng và Nhà nước. Tính thống nhất, đa dạng thể hiện ở các quan điểm tạo
điều kiện thuận lợi cho các loại hình trường phát triển thống nhất theo định
hướng chung của nhà trường XHCN” [5 tr. 34].
Sự đa dạng về đối tượng người học, giáo viên, loại hình trường, loại hình
đào tạo, nguồn ngân sách nhưng đều phải thống nhất theo mục tiêu, chương
trình , nội dung của Bộ GD-ĐT ban hành , dưới sự quản lý, chỉ đạo, thanh tra
của nhà nước.
Tính mềm dẻo, linh hoạt thể hiện qua việc các trường lựa chọn đối tượng
tuyển sinh phù hợp với yêu cầu thực tế của cha mẹ học sinh; đáp ứng yêu cầu
15
dạy thêm môn, thêm giờ, tạo điều kiện cho các em có đủ trình độ thi vào các
trường đại học và trung học chuyên nghiệp. Tính hợp pháp, hợp lý thể hiện qua
các điều khoản quy định về chính sách phát triển trường, về đất đai, vay vốn
đầu tư, chính sách thuế, quyền sử dụng tài sản, tài chính, chính sách với giáo
viên, học sinh. Để các quy định đó có hiệu lực pháp lý, cần có các Nghị định
của Chính phủ, Quyết định của Bộ, Thông tư liên Bộ về các vấn đề đã quy định
trong quy chế.
Đặc thù của loại hình THPTBC.
Hình thức thành lập. Trường Bán công nói chung (THPTBC nói riêng)
là trường do nhà nước thành lập trên cơ sở tổ chức nhà nước phối hợp với tổ
chức không phải tổ chức nhà nước, thuộc mọi thành phần kinh tế hoặc với cá
nhân cùng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất theo một trong hai phương thức sau:
Thành lập mới ; Chuyển một phần hoặc toàn bộ cơ sở vật chất từ trường công
lập sang bán công ; Do nhà nước kết hợp với đơn vị tổ chức nhân dân thành
lập.
Các trường THPTBC vùng nông thôn Hải Phòng thuộc nhóm 1.
Công tác quản lý trường học ở trường THPTBC mang đặc thù sau.
Bình đẳng với các trường THPT công lập về nhiệm vụ quản lý: Chịu sự
lãnh đạo của các cấp, các cơ quan chủ quản. Thực hiện theo pháp quy quá trình
dạy học (Mục tiêu - nội dung - phương pháp). Quản lý một bộ phận tài chính và
bộ phận CSVC nguồn nhà nước.
Công tác quản lý trường học ở trường THPTBC khác nhiệm vụ quản lý ở
THPT công lập những mặt sau đây:
+ Quản lý nguồn nhân lực (Tự tuyển dụng xây dựng theo pháp luật)
+ Quản lý nguồn tài lực cơ bản (Tự hạch toán lấy thu bù chi )
+ Quản lý nguồn vật lực phát triển từ kinh phí đào tạo và XHHGD.
Hiệu trưởng nhà trường THPTBC cũng có thêm những nhiệm vụ và quyền
hạn đặc thù khác :
" Xây dựng đề án tổ chức và hoạt động của trường để trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Huy động nguồn vốn để xây dựng và phát triển trường. Thực
16
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét