Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2016
Biện pháp quản lý đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật Trung ương
8.2. Nhóm phương pháp điều tra, khảo sát thực tế (điều tra, khảo sát, phỏng vấn
chuyên gia...)
8.3. Nhóm phương pháp thống kê, xử lý số liệu
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị và tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý đội ngũ giảng viên trường cao đẳng
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng
Kinh tế – Kỹ thuật Trung ương
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý đội ngũ giảng viên
Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Trung ương
11
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Trên thế giới, khởi đầu của vấn đề quản trị con người trong các tổ chức là
quản trị nhân sự với việc chú trọng đơn thuần lên các vấn đề quản trị hành chính
nhân viên. Phòng nhân sự thường có vai trò mờ nhạt, chỉ thụ động giải quyết các
vấn đề mang tính chất hành chính, sự vụ theo các qui định của doanh nghiệp hoặc
theo yêu cầu của các lãnh đạo. Trong thế kỷ này, quản trị con người trong phạm vi
của các tổ chức, doanh nghiệp đã áp dụng ba cách tiếp cận chủ yếu: Quản trị trên cơ
sở khoa học, quản trị theo các mối quan hệ con người và quản trị nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, hai cách tiếp cận đầu là quản trị theo khoa học và quản trị theo các mối
quan hệ con người đều đã phai nhạt, ngày nay chỉ còn cách tiếp cận quản trị nguồn
nhân lực là được sử dụng rộng rãi.[15, tr. 12]
Vào cuối thế kỷ XIX, phong trào quản trị trên cơ sở khoa học do Taylor
(1856-1915) khởi xướng, được nhiều nhà khoa học khác nồng nhiệt kế tục, tích cực
phát triển như Gilbreth, Gantt,v.v..Phương pháp quản trị trên cơ sở khoa học được
áp dụng rộng rãi và mang lại nhiều kết quả to lớn về năng suất lao động và sản
lượng. Nhưng phương pháp này có nhược điểm là không quan tâm đến quyền lợi
của người lao động.
Từ giữa những năm đầu của thập niên 30 thế kỷ XIX, phong trào quản trị
khoa học được thay thế bằng quản trị các mối quan hệ con người. Khởi đầu bằng
nghiên cứu của Hawthone từ năm 1924 và kéo dài đến nhiều năm sau. Tiếp theo là
nghiên cứu của Elton Mayo và F.J.Roethlisberger đã dẫn đến sự áp dụng rộng rãi
các phương pháp, kỹ thuật nghiên cứu khoa học hành vi đối xử trong công nghiệp.
Đồng thời, năm 1935 đạo luật Wagner ra đời ở Mỹ đã giúp cho các tổ chức công
đoàn phát triển mạnh mẽ và buộc người sử dụng lao động phải quan tâm hơn đến
điều kiện làm việc và các chương trình phúc lợi cho người lao động. Từ cuối những
năm 1970, vấn đề cạnh tranh gay gắt trên thị trường cùng với sự chuyển đổi từ quá
trình sản xuất công nghiệp theo lối cổ truyền sang quá trình sản xuất theo các công
nghệ kỹ thuật hiện đại, những biến đổi trong cơ cấu nghề nghiệp, việc làm và nhu
12
cầu ngày càng nâng cao của nhân viên đã tạo ra cách tiếp cận mới về quản trị con
người trong các tổ chức doanh nghiệp. Vấn đề quản trị con người không còn đơn
giản chỉ là vấn đề quản trị hành chính nhân viên. Cách tiếp cận quản trị nguồn nhân
lực đòi hỏi cán bộ phòng quản trị nhân lực phải có hiểu biết tốt về tâm lý xã hội,
nghiên cứu hành vi, tổ chức, luật pháp và các nguyên tắc kinh doanh, giáo dục.
Ở việt Nam, kế thừa tinh hoa các tư tưởng giáo dục tiên tiến và vận dụng sáng
tạo phương pháp luận của triết học Mác - Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969),
Người đã để lại cho chúng ta nền tảng về lý luận: vai trò của giáo dục, vai trò của
quản lý, cán bộ quản lý, phương pháp quản lý, phát triển nền giáo dục cách mạng
Việt Nam.
Nhiều công trình nghiên cứu về khoa học quản lý của các nhà nghiên cứu
như: Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Quốc Bảo, Đặng Bá Lãm, Nguyễn Quốc Chí…
bằng sự tổng hòa các tri thức về giáo dục học, tâm lý học, xã hội học, kinh tế học,
các tác giả đã thể hiện trong các công trình nghiên cứu của mình một cách khoa học
về khái niệm quản lý, các thành phần của cấu trúc quản lý, chức năng quản lý,
nguyên tắc quản lý, nghệ thuật quản lý và quản lý giáo dục tạo thành một môn khoa
học đặc trưng góp phần vào công cuộc phát triển GD&ĐT nước nhà.
Ngày nay, đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia thì GD&ĐT
luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Có thể nói, đầu tư cho giáo dục là đầu tư để tạo
nguồn dự trữ chiến lược quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Đầu tư cho giáo dục là
đầu tư cho con người, đầu tư cho khả năng sáng tạo của họ. Trong tiến trình phát
triển và hội nhập đã cho thấy rõ, nước nào đặt giáo dục đúng vị trí thì sự hội tụ của
trí tuệ do giáo dục đem lại sẽ nâng tầm kinh tế của nước đó lên tầm cao mới, quốc
gia nào đầu tư kém cho giáo dục thì sẽ tụt hậu và sẽ còn tồi tệ hơn cả sự phá sản.
Xã hội vận động và biến đổi không ngừng, nguồn nhân lực được đào tạo chỉ
đáp ứng được yêu cầu trong sự vận động biến đổi ấy, khi nó không lạc hậu so với
yêu cầu của xã hội, điều ấy chỉ ra rằng trong nhà trường phát triển ĐNGV phải có
tính đón đầu, kế hoạch, có chiến lược, mục đích là: Phát triển toàn diện người giáo
viên trong hoạt động nghề nghiệp của họ “Những thiếu xót trong khâu đào tạo
nghiệp vụ, các nhu cầu cập nhật, các kỹ năng cần thiết, không phải là nguyên do căn
bản đến phát triển đội ngũ giáo viên, cũng như việc bồi dưỡng mang tính chữa cháy,
13
lại càng không thể đóng vị trí chủ chốt trong công tác phát triển đội ngũ ” [6, tr. 4].
Trong các nhà trường ĐNGV là nguồn nhân lực chủ yếu quyết định chất lượng và
hiệu quả đào tạo, quyết định sự tồn tại, phát triển nhà trường. Chăm lo phát triển
ĐNGV đã và đang là sự quan tâm của toàn xã hội, là nhiệm vụ trọng tâm của ngành
giáo dục, do vậy quản lý ĐNGV phải được ưu tiên trong chiến lược phát triển nhà
trường trong giai đoạn mới.
Những năm gần đây, nhiều Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục đã đề cập đến
vấn đề quản lý, xây dựng, phát triển ĐNGV như: Lưu Trọng Hưng “Quản lý đội
ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Công nghệ Thành Đô trong bối cảnh mới” –
Năm 2009; Lê Việt Dương “Biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên các trường trung
học phổ thông ngoài công lập thành phố Hà Nội trong bối cảnh hiện nay” – năm
2011. Các công trình nghiên cứu đó đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của vấn
đề quản lý, phát triển đội ngũ nhà giáo, từ đó đề xuất một số giải pháp, biện pháp
quản lý trên cơ sở thực tế của từng trường. Do vậy, nghiên cứu để có biện pháp
quản lý ĐNGV phù hợp với điều kiện cụ thể của Trường CĐKT - KT Trung ương
là rất cần thiết.
1.2. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Giảng viên, Đội ngũ giảng viên
1.2.1.1. Giảng viên
Điều 70, Luật giáo dục nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005
đã ghi:
“1. Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường,
các cơ sở giáo dục khác.
2. Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
a) Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
b) Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
c) Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;
d) Lý lịch bản thân rõ ràng.
3. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp gọi là giáo
14
viên. Nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng nghề gọi là
giảng viên”
Như vậy, Giảng viên là nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong các
trường đại học và cao đẳng.
1.2.1.2. Đội ngũ giảng viên
ĐNGV là tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong các
nhà trường đại học và cao đẳng, họ gắn kết với nhau nhằm thực hiện mục tiêu
chung của ngành giáo dục – đào tạo và hoàn thành mục tiêu của các nhà trường đại
học, cao đẳng nơi họ công tác.
Thông qua các hoạt động giảng dạy - giáo dục, nghiên cứu khoa học, lao động
sản xuất và các hoạt động xã hội khác, ĐNGV trong trường hàng ngày đang thực hiện
mục tiêu chiến lược phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo; là đội ngũ có vai trò chủ
đạo trong việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội
và được xã hội tôn vinh. Lao động của họ hướng trực tiếp vào đào tạo con người đáp ứng
nhu cầu của xã hội.
1.2.2. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nguồn nhân lực
1.2.2.1. Quản lý
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục, 1998, thuật ngữ quản lý đựơc
định nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan”. [14, tr. 326]
Nghiên cứu về quản lý có rất nhiều quan niệm khác nhau. Các quan niệm này
phản ánh những mặt, những chức năng cơ bản của quá trình quản lý, song về cơ bản
các quan niệm đều khẳng định đến chủ thể, đối tượng quản lý, nội dung, phương
thức và mục đích của quá trình quản lý. Từ điển tiếng Việt: “Quản lý là trông coi và
giữ gìn theo những yêu cầu nhất định”. Trong khía cạnh khác “Quản lý là tổ chức
và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”. [14, tr. 326]
Theo C.Mac: “Quản lý là lao động điều khiển lao động”. C.Mac đã coi việc
xuất hiện quản lý như là kết quả tất nhiên của sự chuyển nhiều quá trình lao động cá
biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình xã hội đựơc phối hợp lại. C.Mac
đã viết: “Bất cứ lao động hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô
khá lớn, đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá
15
nhân…Một nhạc sỹ độc tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có
nhạc trưởng”. [14, tr. 326]
Nhà triết học V.G. Afanatsev cho rằng, quản lý xã hội một cách khoa học là
nhận thức, phát hiện các quy luật, các khuynh hướng vận động của xã hội và hướng
sự vận động của xã hội cho phù hợp với các khuynh hướng đó; là phát hiện và giải
quyết kịp thời các mâu thuẫn của sự phát triển; là duy trì sự thống nhất giữa chức
năng và cơ cấu của hệ thống; là tiến hành một đường lối đúng đắn dựa trên cơ sở
tính toán nghiêm túc những khả năng khách quan, mối tương quan giữa các lực
lượng xã hội…
Quản lý là một hoạt động có chủ đích, có định hướng đựơc tiến hành bởi một
chủ thể quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để thực hiện các mục tiêu xác
định của công tác quản lý. Trong mỗi chu trình quản lý chủ thể tiền hành những
hoạt động theo các chức năng quản lý như xác định mục tiêu, các chủ trương, chính
sách; hoạch định kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện, điều hoà, phối hợp, kiểm tra,
đánh giá và huy động, sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn lực cơ bản như tài lực,
vật lực, nhân lực…để thực hiện các mục tiêu, mục đích mong muốn trong bối cảnh
và thời gian nhất định.
Quanh khái niệm quản lý còn có rất nhiều khái niệm khác nhau.
Frederick Winslow Taylor (1856 - 1915) là nhà thực hành quản lý khoa học
về lao động đã nghiên cứu sâu các thao tác, các quá trình lao động nhằm khai thác
tối đa thời gian lao động, sử dụng công cụ, phương tiện lao động có hiệu quả nhất
với năng suất và chất lượng lao động cao nhất. Ông đã đưa ra định nghĩa: “Quản lý
là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ
đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. Theo ông có 4 nguyên tắc
quản lý khoa học:
- Nghiên cứu một cách khoa học mỗi yếu tố của một công việc và xác định
phương pháp tốt nhất để hoàn thành;
- Tuyển chọn người và huấn luyện họ hoàn thành nhiệm vụ bằng phương
pháp khoa học;
- Người quản lý phải hợp tác đầy đủ, toàn diện với người bị quản lý để đảm
bảo chắc chắn rằng họ làm theo phương pháp chắc chắn;
16
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét