Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2016
Các biện pháp huy động cộng đồng tham gia xây dựng trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia ở huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng
- Khái quát cơ sở lý luận quản lý giáo dục của vấn đề HĐCĐ tham gia xây dựng
trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia ở huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng.
- Phân tích thực trạng của hoạt động HĐCĐ tham gia xây dựng trung học cơ sở đạt
chuẩn quốc gia ở huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng theo các mặt huy động nguồn
lực vật chất và tinh thần cho GD THCS trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp HĐCĐ tham gia xây dựng trung học cơ sở đạt chuẩn
quốc gia ở huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
Từ góc độ quản lý giáo dục, đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề về HĐCĐ
trong xây dựng THCS ở huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng trong thời gian từ năm
2004 đến năm 2008 .
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các nhóm phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp luận của khoa học quản lý giáo dục
- Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận: phân tích và tổng hợp
- Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn: (quan sát; phỏng vấn; khảo sát; tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn; thăm dò ý kiến, )
- Phƣơng pháp thống kê và một số phƣơng pháp khác
8. Kết cấu của luận văn
Nội dung nghiên cứu đề tài đƣợc kết cấu chủ yếu ở 3 chƣơng sau đây:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu.
Chƣơng 2: Thực trạng việc HĐCĐ nhằm tăng cƣờng các nguồn lực cho GD Trung
học cơ sở huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng.
Chƣơng 3: Đề xuất các biện pháp huy động cộng đồng tham gia xây dựng Trung
học cơ sở đạt chuẩn quốc gia ở huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng.
Ngoài ra, luận văn còn có các phần mở đầu, phần kết luận - khuyến nghị, tài liệu
tham khảo và các phục lục
13
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Sơ lƣợc về vấn đề nghiên cứu.
Vấn đề huy động cộng đồng từ góc độ quản lý giáo dục ở một số nước trong khu
vực trên thế giới.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của thông tin, với tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật,
con ngƣời và khoa học trí tuệ qua GD-ĐT đã đƣợc xác định là một động lực của sự
phát triển. Mối liên hệ giữa GD-ĐT, khoa học và công nghệ với kinh tế và xã hội trở
lên bền chặt. Theo các mục đích khác nhau, nhiều nƣớc trong khu vực và trên thế giới,
kể cả các nƣớc giàu có cũng đều đặt ra vấn đề phải XHHSNGD. Các luật GD của Hoa
Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Đức ... các hiến lƣợc phát triển GD đến năm 2020
của nhiều nƣớc trên thế giới đều coi trọng phƣơng thức huy động cộng đồng.
Các nƣớc thuộc khu vực Đông Nam Á và khối ASEAN cũng đang tích cực đẩy
nhanh quá trình phát triển GD bằng nhiều con đƣờng khác nhau, nhƣng để tạo ra đƣợc
động lực thúc đẩy nhanh, hầu hết các nƣớc đều tận dụng và phát huy sức mạnh của
cộng đồng trong việc tham gia phát triển giáo dục.
Qua đó, chúng ta càng thấy rõ rằng HĐCĐ là qui luật tất yếu để phát triển GD cho
mọi quốc gia. Tuy vậy quá trình vận động để cho quy luật này phát triển còn tuỳ thuộc
vào điều kiện kinh tế xã hội và chính thể của mỗi quốc gia đó. Điều quan trọng là tìm
ra cách làm tốt nhất, có hiệu quả và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và truyền
thống dân tộc của mỗi nƣớc.
Vấn đề huy động cộng đồng ở Việt Nam
Cần nói ngay rằng, khái niệm HĐCĐ thƣờng đƣợc hiểu là một bộ phận, một hoạt
động của XHHSNGD. Chỉ từ những năm 1980 đến nay trong lĩnh vực khoa học quản
lý mới nói đến cộng đồng, ví dụ rõ nhất là quan điểm quản lý dựa vào cộng đồng, quản
lý dựa vào sự tham gia của cộng đồng, quản lý có sự tham gia của cộng đồng. Theo
quan điểm nhƣ vậy, huy động cộng đồng làm một hoạt động rất quan trọng và cần thiết
của quản lý giáo dục.
Quan điểm của Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nƣớc ta về sự tham gia của gia
đình và xã hội vào sự nghiệp giáo dục là nền tảng cho việc thực hiện XHHSNGD. Xét
về mặt lịch sử vấn đề, huy động cộng đồng tham gia giáo dục đã xuất hiện rất sớm,
14
trong khi đó khái niệm XHHSNGD mới đƣợc sử dụng chính thức trong Luật giáo dục
ban hành vào cuối thế kỷ 20. HĐCĐ tham gia giáo dục là cốt lõi của quan điểm giáo
dục là sự nghiệp của toàn xã hội. HĐCĐ đã có sức sống tiềm tàng trong truyền thống
GD của nhân dân ta suốt chiều dài lịch sử. Tƣ tƣởng dân là gốc, "lấy dân làm gốc" đã
đƣợc kết tinh truyền thống và lƣu thành bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam. "Dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong" (Bác Hồ). Nhƣ vậy
XHHGD không phải là hoàn toàn mới lạ, mà điểm mới của chủ trƣơng XHHGD hiện
nay đƣợc đặt trong quá trình “tiếp thu đổi mới toàn diện và đồng bộ, đƣa công cuộc đổi
mới đi vào chiều sâu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ
việc đổi mới các lĩnh vực khác”.
Những sự kiện liên tiếp diễn ra sau ngày đất nƣớc tuyên bố nền độc lập đã định
hình nhanh chóng nền GD mới với một hệ thống quan điểm về tổ chức quản lý GD mà
đến nay chúng vẫn có nguyên giá trị. Đó là Dân chủ hoá về mục tiêu phát triển; Dân
tộc và đại chúng hoá về tổ chức đào tạo; Nhân văn hoá về nội dung đào tạo; Khoa học
hoá về phƣơng pháp đào tạo; Xã hội hoá về quản lý đào tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng khởi động cho toàn dân sự hiếu học mới theo phƣơng châm: Những ngƣời chƣa
biết chữ càng gắng sức mà học, vợ chƣa biết thì chồng bảo, em chƣa biết thì anh bảo,
ngƣời ăn, ngƣời làm chƣa biết thì đƣợc chủ bảo để biết làm. Dƣới sự lãnh đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, nền GD Việt Nam đã nhanh chóng đƣa một dân tộc từ chỗ 95%
ngƣời mù chữ từng bƣớc trở thành một dân tộc có học vấn với gần 90% dân số biết đọc,
biết viết. Bài học thành công là Chủ tịch Hồ Chí Minh biết phát huy sức mạnh của toàn
dân tộc và huy động đƣợc sự tham gia của cộng đồng gồm các cá nhân, gia đình và tổ
chức.
Ngày 11 tháng 01 năm 1979, Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 14 – NQ/TW về
cải cách GD đã xác định phƣơng châm "phối hợp những cố gắng đầu tư của Nhà nước
với sự đóng góp của nhân dân, của các ngành, các cơ sở sản xuất và sức lao động của
thầy trò trong việc xây dựng trường sở, phòng thí nghiệm, xưởng trường, vườn trường".
Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng lần thứ 4 khoá VII đã nhấn mạnh "Nhà nước
cần đầu tư nhiều hơn cho GD, nhưng vấn đề quan trọng là phải quán triệt sâu sắc và
tiến hành tốt việc XHH các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào xây dựng, phát triển GD
15
trong nhân dân, coi GD là sự nghiệp của toàn xã hội". Đến đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, XHHSNGD đƣợc Đảng ta xác định là cơ sở để hoạch định hệ thống chính
sách xã hội: "Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá.
Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp,
các tổ chức xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết
những vấn đề xã hội". Trên tinh thần ấy, văn kiện Đại hội VIII về GD-ĐT đã nêu: "Cụ
thể hoá chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá sự nghiệp GD-ĐT,
trước hết là vấn đề đầu tư phát triển và bảo đảm kinh phí hoạt động. Ngoài việc ngân
sách dành một tỷ lệ thích đáng cho sự phát triển GD-ĐT, cần thu hút thêm các nguồn
đầu tư từ các cộng đồng, các thành phần kinh tế, các giới kinh doanh trong và ngoài
nước, đi đôi với việc sử dụng hiệu quả nguồn đầu tư cho GD-ĐT. Những doanh nghiệp
sử dụng người lao động được đào tạo có ý nghĩa đóng góp vào ngân sách GD-ĐT. Đổi
mới chế độ học phí cho phù hợp với sự phân tầng thu nhập trong xã hội, loại bỏ những
đóng góp không hợp lý nhằm đảm bảo tốt hơn kinh phí GD, đồng thời cải thiện điều
kiện học tập cho học sinh nghèo".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ƣơng khoá VIII khẳng định:
"GD là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học,
học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi người chăm lo cho GD.
Các cấp uỷ và các tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách
nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp GD-ĐT. Kết hợp GD nhà trường, GD
gia đình và GD xã hội, tạo lên môi trường GD lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng
đồng, từng tập thể" .
Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định xã hội hoá là
một trong những quan điểm để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội.
Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về XHHSNGD đƣợc thể chế hoá bằng pháp luật
thể hiện ở Luật Giáo dục là cơ sở pháp lý để thực hiện XHHSNGD. Tại Điều 1 về
XHHSNGD, Luật này ghi rõ: "Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm
chăm lo sự nghiệp GD, xây dựng phong trào học tập và môi trường GD lành mạnh,
phối hợp nhà trường thực hiện mục tiêu GD. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát
triển sự nghiệp GD; thực hiện đa dạng hoá các loại hình nhà trường và các hình thức
16
GD, khuyến khích vận động và tạo điều kiện để tổ chức các nhân tham gia phát triển
sự nghiệp GD".
Ngày 18/4/2005 Chính Phủ đề ra Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về "Đẩy mạnh xã
hội hoá các hoạt động GD, y tế, văn hoá và thể dục thể thao" để đẩy mạnh hơn nữa quá
trình xã hội hoá.
Nhƣ vậy, hệ thống quan điểm của Đảng và các chính sách của Nhà nƣớc ta về
XHHSNGD thực chất là khẳng định tƣ tƣởng chiến lƣợc của Đảng trong quá trình phát
triển GD-ĐT. Quá trình đó đã chứng minh rằng, XHHSNGD không phải là giải pháp
tình thế khi nền kinh tế đất nƣớc còn khó khăn điều kiện đầu tƣ cho GD còn hạn hẹp,
mà là một chủ trƣơng chiến lƣợc lâu dài, xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển GD,
ngay cả đến khi nƣớc ta phát triển thành một nƣớc công nghiệp có thu nhập quốc dân
cao gấp nhiều lần so với hiện tại bây giờ.
Vấn đề HĐCĐ để đầu tƣ cho GD thực chất là vấn đề tăng cƣờng XHHSNGD, vấn
đề này đã đƣợc nhiều sách báo đề cập, ở nƣớc ta đã có một số nhà khoa học, nhà quản
lý GD nghiên cứu lĩnh vực này. Tuy nhiên, vẫn còn rất ít nghiên cứu tập trung vào vấn
đề HĐCĐ. Do đó, cần thiết phải xem xét HĐCĐ từ góc độ khoa học quản lý giáo dục
để làm rõ mối quan hệ giữa HĐCĐ và XHHSNGD, các biện pháp HĐCĐ và cách cải
tiến quản lý giáo dục nhằm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của các biện pháp HĐCĐ
tham gia xây dựng và phát triển giáo dục.
Tuy nhiên ở mỗi tỉnh, thành phố, quận huyện, thị xã có điều kiện địa lý, đặc điểm
KTXH khác nhau, nên hoạt động HĐCĐ tham gia xây dựng GD và việc vận dụng
những phƣơng pháp huy động cũng mang những sắc thái riêng, đặc trƣng cho địa
phƣơng đó.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Giáo dục, Trung học cơ sở, giáo dục trung học cơ sở
1.2.1.1. Khái niệm giáo dục: chức năng và nhu cầu
Về bản chất, GD là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm lao động giữa các thế hệ loài ngƣời. Về hoạt động, GD là quá trình tác động
đến các cá nhân - đối tƣợng của GD, hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách để
họ có thể hoà nhập vào đời sống xã hội. Nhƣ vậy, chức năng đầu tiên, nguyên thuỷ của
17
GD là xã hội hoá. Theo quan điểm của "Giáo dục học", GD đƣợc hiểu theo 4 cấp độ
khác nhau.
Cấp độ thứ nhất, GD là quá trình hình thành nhân cách dƣới ảnh hƣởng của những
tác động chủ quan, có ý thức và không có ý thức của cuộc sống, của hoàn cảnh xã hội
đối với các cá nhân.
Cấp độ thứ hai, GD là hoạt động có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống của xã hội
tác động đến con ngƣời để hình thành những phẩm chất, nhân cách (GD xã hội).
Cấp độ thứ ba, GD là quá trình tác động có kế hoạch, có nội dung và phƣơng pháp
khoa học của nhà sƣ phạm trong nhà trƣờng tới học sinh giúp họ nhận thức, phát triển
trí tuệ, tình cảm thành phẩm chất, nhân cách, đó là quá trình sƣ phạm.
Cấp độ thứ tƣ, GD đƣợc hiểu là quá trình bồi dƣỡng để hình thành những phẩm
chất, đạo đức cụ thể qua việc tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lƣu. GD ngang
hàng với khái niệm dạy học. [38, Tr.52]
Ngày nay cùng với sự phát triển và tiến bộ xã hội, GD đƣợc hiểu rộng hơn, với nội
dung phong phú. Theo quan điểm của UNESCO, ngoài những nội dung trên, GD còn
bao hàm cả việc GD nhân văn, GD quốc tế, GD văn hoá và mở rộng sang việc GD hệ
thống giá trị nhằm hình thành nhân cách cho mỗi con ngƣời. [14, Tr.22]
Trong xã hội, GD phải đảm nhận hai chức năng cơ bản, đó là chức năng văn hoá
xã hội (nâng cao dân trí, bồi dƣỡng nhân tài, GD tƣ tƣởng chính trị) và chức năng kinh
tế (đào tạo và phát triển nhân lực). GD đƣợc thực hiện thông qua nhiều con đƣờng nhƣ:
Dạy học, tổ chức các hoạt động phong phú và đa dạng, sinh hoạt tập thể, tự tu dƣỡng.
[38, Tr.14] Giáo dục gồm:
+ GD chính qui .
+ GD không chính quy.
+ GD không chính thức.
+ GD tự phát.
Các biện pháp HĐCĐ cần đƣợc định hƣớng và quản lý để thu hút sự tham gia của
cộng đồng trên các cấp độ, các hình thức giáo dục nhằm đảm bảo giáo dục thực hiện có
hiệu quả các chức năng của giáo dục
1.2.1.2. Trung học cơ sở: THCS là cấp học đầu tiên của bậc trung học, đƣợc thực hiện
trong bốn năm học, từ lớp 6 đến lớp 9. Học sinh vào lớp sáu phải có chứng nhận hoàn
thành chƣơng trình tiểu học, có tuổi là 11.
18
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét