Thứ Năm, 12 tháng 5, 2016
Biện pháp quản lý nhằm hạn chế những yếu tố cản trở quá trình đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ tại Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC QUẢN LÝ NHỮNG YẾU TỐ CẢN
TRỞ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và đổi mới PPDH nói riêng, vừa là
phương tiện, vừa là mục tiêu của công cuộc nâng cao chất lượng GD & ĐT. Tầm quan
trọng, ý nghĩa và tính cấp bách của việc đổi mới này đã được nêu lên rất rõ trong các văn
bản của Đảng, Nhà nước và của các cấp quản lý ngành Giáo dục.
Nghị quyết TW2 khoá VIII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD & ĐT,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy
học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS, nhất là SV ĐH…”
Ngày 2/11/2005, Chính phủ đã có Nghị quyết 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản
và toàn diện giáo dục ĐH Việt Nam giai đoạn 2006-2020. Nghị quyết đề ra bảy nhóm
nhiệm vụ với những giải pháp đổi mới giáo dục trong đó nhấn mạnh đến yếu tố đổi mới
PPDH tại mọi cấp học, bậc học.
Ngay từ đầu những năm 1990, vấn đề đổi mới PPDH đã được nhiều nhà nghiên
cứu đề cập tới như: Đặng Vũ Hoạt, Ngô Hiệu “Vấn đề hoàn thiện các PPDH” (1991),
Trần Bá Hoành “Phương pháp tích cực” (1996), Nguyễn Đình Chỉnh “Phương pháp dạy
học - vấn đề cốt lõi, đổi mới không dễ” (1997), Nguyễn Hoàng Kì “Đổi mới PPDH”
(2000), Nghiêm Đình Vì “Tiếp tục đổi mới PPDH theo hướng hoạt động hóa người
học”(2000), Trần Trọng Thủy “Vấn đề đổi mới nội dung, PPDH nhìn từ góc độ Tâm lý
học” (2000), Trần Viết Lưu “Những yếu tố ảnh hưởng tới việc đổi PPDH ở nước ta hiện
nay” (2001), Phan Đình Diệu, “Một cách nhìn về vấn đề đổi mới PPDH” (2003) ...
Đề cập đến các vấn đề chung của đổi mới PPDH ở bậc ĐH có các tác giả tiêu
biểu như: Vũ Văn Tảo “Vài nét về xu thế đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ĐH
trên thế giới” (1997), Lâm Mai Long “Tăng cường hiệu quả của đổi mới phương pháp
trong các trường ĐH” (1998), Lê Văn Giáo và Nguyễn Thị An Vinh “Một số ý kiến về
đổi mới PPDH ở ĐH” (1999), Lê Đức Phúc “Về đổi mới PPDH ĐH” (2001), Trần Hữu
Luyến “Mục đích, cơ sở, nội dung và giải pháp đổi mới PPDH ở trường ĐH và CĐ”
(2002), Phạm Xuân Hậu “Đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức
6
của SV” (2002), Nguyễn Thường Lạng “Kết hợp giữa phương pháp giảng dạy truyền
thống với phương pháp giảng dạy hiện đại để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ĐH
hiện nay” (2002), Lê Khánh Bằng “Một số phương hướng đổi mới PPDH ở ĐH” (2003),
Đặng Xuân Hải “Vận dụng lý thuyết quản lý sự thay đổi để chỉ đạo đổi mới PPDH ở nhà
trường hiện nay” (2004).
Ngoài ra, ngành GD&ĐT còn tổ chức nhiều hội thảo khoa học, hội tụ các nhà sư
phạm, nhà khoa học, nhà quản lý uy tín nhằm nghiên cứu những giải pháp thực hiện đổi
mới PPDH hiệu quả. Ví dụ, hội thảo “Nâng cao chất lượng đào tạo toàn quốc lần thứ III”
được tổ chức tại Hà Nội tháng 6 năm 2002; Hội thảo “Đổi mới PPDH ở ĐH và CĐ”
tháng 3 năm 2007; Hô ̣i thảo “ Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam
- Hô ̣i nhâ p và thách
̣
thức” tháng 3 năm 2008; Hô ̣i thảo “ Đổi mới phương pháp giảng dạy Đại học” tháng 2
năm 2009;…
1.1.2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ ở
bậc đại học - cao đẳng
Có thể nói, vấn đề về đổi mới PPDH nói chung và đổi mới PPDHNN nói riêng ở
bậc ĐH - CĐ đã và đang được sự quan tâm của Bộ GD&ĐT, nhiều trường ĐH - CĐ,
nhiều nhà khoa học và các nhà QLGD.
Chiến lược phát triển giáo dục 2010-2020 đã chỉ rõ: “Thực hiện cuộc vận động
toàn ngành đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lý của
GV. SV sau khi tốt nghiệp có kiến thức hiện đại, kỹ năng thực hành nghề nghiệp vững
chắc, có khả năng lao động sáng tạo, có tư duy độc lập, phê phán và năng lực giải quyết
vấn đề, có khả năng thích ứng cao với những biến động của thị trường lao động, có khả
năng sử dụng tiếng Anh trong học tập, nghiên cứu và làm việc sau khi tốt nghiệp đạt mức
3 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế.” [2, tr. 23].
Đề cập đến các vấn đề của đổi mới PPDHNN ở bậc ĐH - CĐ có các tác giả như:
Lê Hương Hoa “Đổi mới phương pháp giảng dạy tiếng Anh theo định hướng thực hành
giao tiếp”, Đặng Đình Cung “Cần làm rõ nội dung, điều kiện đổi mới PPDHNN trong
các trường ĐH”, Trần Thị Lan “Đổi mới PPDHNN từ lý thuyết đến thực tế”, Vũ Quốc
Thái “Về đổi mới PPDHNN”, Tô Thị Thu Hương “Lý luận và PPDHNN tại các trường
ĐH”, Trần Thế Khoa “Đổi mới các kỹ năng học ngoại ngữ”, Nguyễn Thu Hường “Đổi
7
mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân”, Dương
Quốc Cường “Đổi mới PPDHNN góp phần nâng cao chất lượng đào tạo”,...
Ngoài ra, gần đây trong nhiều hội thảo khoa học, vấn đề về đổi mới PPDHNN ở
bậc ĐH - CĐ đã được bàn luận rất sôi nổi. Ví dụ như: Hội nghị khoa học “Đổi mới
phương pháp giảng dạy ngoại ngữ ở ĐH” (10.2009); Hội thảo “Đổi mới PPDHNN tại
ĐH Hà nội” (1.2009); Hội nghị “Đổi mới phương pháp giảng dạy ngoại ngữ tại trường
ĐH Ngoại ngữ - ĐH Huế” (2.2009); Hội thảo “Đổi mới phương pháp giảng dạy tiếng
Anh ở ĐH Duy Tân” (5.2009); Hội thảo khoa học “Cải tiến phương pháp giảng dạy ngoại
ngữ không chuyên ở trường ĐH Sư phạm” (7.2009);... Trong các hội thảo này, đã có rất
nhiều tham luận đề cập đến thực trạng công cuộc đổi mới PPDHNN ở bậc ĐH - CĐ cũng
như các xu hướng phát triển và các giải pháp chung, kinh nghiệm cụ thể tại một số trường
ĐH và CĐ.
1.2. Một số khái niệm cơ bản về quản lý
1.2.1. Quản lý và các vấn đề liên quan đến quản lý
1.2.1.1. Quản lý
Khoa học quản lý xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Nó là
phạm trù tồn tại khách quan, được ra đời một cách tất yếu do nhu cầu của mọi chế độ xã
hội, mọi tổ chức, mọi quốc gia, mọi thời đại. Lao động quản lý là một lĩnh vực lao động
trí tuệ và thực tiễn phức tạp nhất của con người nhằm điều khiển lao động thúc đẩy xã hội
phát triển trên tất cả các bình diện, khoa học quản lý gắn liền với tiến trình phát triển của
xã hội loài người, mang tính lịch sử, giai cấp, dân tộc, thời đại. Quản lý là một khoa học
sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học xã hội, đồng thời quản lý còn là một nghệ thuật
đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao độ để đạt được mục đích. Chính vì vậy, người ta có
thể tiếp nhận khái niệm quản lý theo nhiều cách khác nhau phụ thuộc vào cái nhìn chủ
quan và tính mục đích hoạt động. Chúng ta có thể điểm qua một số khái niệm:
Theo K.Marx, quản lý là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hoá lao động.
Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua hoạt động
của con người và thông qua quản lý. Người viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp
hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến
một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện như chức năng chung
phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí
8
quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì
cần phải có nhạc trưởng” [22, tr. 480].
Theo F.W. Taylo (1856-1915) “Quản lý là biết được chính xác điều mình muốn
người khác làm và sau đó biết được họ làm việc đó có tốt hay không, có rẻ nhất không” [11, tr. 13].
Henri Fayol (1841 – 1925) xuất phát từ các loại hình quản lý cho rằng: “Quản lý
là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng)
kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [11, tr. 15].
Các nhà nghiên cứu người Mỹ Harold Koontz, Cyril O’ Donnell, Heinz
Weihrich trong cuốn “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” thì cho rằng “Quản lý là một
loại hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo sự phối hợp, nỗ lực của cá nhân hướng vào mục
tiêu tổ chức. Đó là hình thành một môi trường có những điều kiện tốt nhất, thời gian ít
nhất, công sức bỏ ra ít nhất, sự bất mãn cá nhân ít nhất để đạt hiệu quả cao nhất” [21, tr. 33].
Từ điển Tiếng Việt viết: “Quản lý là hoạt động của con người tác động vào tập
thể người khác để phối hợp điều chỉnh phân công thực hiện mục tiêu chung” [33, tr. 1363].
Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động quản lý
là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể
quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức” [11, tr. 1].
Từ các cách tiếp cận trên ta thấy khái niệm quản lý bao hàm một số ý nghĩa chung đó là:
Quản lý là quá trình hoạt động lao động có mục đích để điều khiển lao động.
Có sự tương tác giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
Liên quan tới môi trường xác định.
Từ các dấu hiệu chung này, chúng ta có thể khái quát như sau: Quản lý là một
hoạt động nhằm thực hiện những tác động hƣớng đích của chủ thể quản lý nhằm sử
dụng có hiệu quả những tiềm năng, các cơ hội của tổ chức nhằm đạt đến mục tiêu
của tổ chức đặt ra trong một môi trƣờng luôn luôn thay đổi.
1.2.1.2. Bản chất của quản lý
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của ngƣời quản lý
đến đối tƣợng quản lý nhằm đạt đƣợc mục tiêu quản lý.
9
Trong GD & ĐT đó là tác động của nhà QLGD đến tập thể GV, HS - SV và các lực
lượng giáo dục khác nhau trong xã hội nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu QLGD.
QLGD có bản chất vì lợi ích phát triển giáo dục nhằm hình thành và phát triển
nhân cách người được giáo dục, đối tượng giáo dục và chủ thể giáo dục đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.1.3. Các chức năng của quản lý
Trong Lý luận đại cương về quản lý (tài liệu giảng dạy cao học chuyên ngành
QLGD năm 2008) đã viết rằng, quản lý là hệ thống gồm 4 chức năng cơ bản: Kế hoa ̣ch
hóa, tổ chức, chỉ đa ̣o và kiể m tra [11, tr. 3].
- Kế hoa ̣ch hóa : Kế hoa ̣ch hóa có nghĩa là xác đinh mu ̣c tiêu , mục đích đối với
̣
những thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt mục
tiêu, mục đích đó.
-
Tổ chƣc : Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các
́
thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công
các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức.
- Lãnh đạo : Lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và động
viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
- Kiể m tra: Kiểm tra cũng là một chức năng quản lý, thông qua đó một cá nhân,
một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành
những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết.
Tóm lại, các chức năng của quản lý có mối liên hệ mật thiết với nhau, người quản
lý luôn phải nắm bắt mọi thông tin để tiến hành quản lý, dẫn dắt tổ chức đến mục tiêu cần
đạt được.
1.2.1.4. Biện pháp quản lý
Theo Đại từ điển tiếng Việt (1999) do Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên “biện pháp là cách
làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể” [33, tr.161].
Biện pháp quản lý là tổ hợp nhiều cách thức tác động của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải quyết những vấn đề trong
công tác quản lý, làm cho hệ thống quản lý vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể quản lý đã
10
đề ra và phù hợp với quy luật khách quan, nâng cao khả năng hoàn thành đạt được kết
quả các mục tiêu đặt ra.
Biện pháp quản lý đòi hỏi phải có sự tác động tương hỗ, biện chứng giữa chủ thể
và khách thể quản lý.
Có 4 loại biện pháp quản lý cơ bản là: Biện pháp hành chính tổ chức, biện pháp
tâm lý - giáo dục, biện pháp thuyết phục và biện pháp kinh tế.
Biện pháp hành chính tổ chức: là cách tác động trực tiếp của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính bằng mệnh lệnh,
chỉ thị, quyết định.
Biện pháp tâm lý - giáo dục: (còn được gọi là biện pháp tuyên truyền giáo dục) là
cách tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý dựa trên cơ sở vận dụng các quy
luật tâm lý ứng dụng thành tựu các khoa học như Tâm lý học, Khoa học giáo dục ... nhằm
khai thác tiềm năng con người, kích thích ý thức tự giác, lòng say mê, sự sáng tạo của
con người trong mọi hoạt động của tổ chức.
Biện pháp thuyết phục: là cách tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản
lý dựa trên cơ sở lý lẽ làm cho họ nhận thức đúng đắn và tự nguyện thừa nhận các yêu
cầu của nhà quản lý từ đó có thái độ và hành vi phù hợp với yêu cầu.
Biện pháp kinh tế: là cách tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý
dựa trên cơ sở thuyết động lực kinh tế với luận điểm: lợi ích kinh tế sẽ tạo nên động lực
thúc đẩy con người tích cực hoạt động mà không cần sự can thiệp trực tiếp về mặt hành
chính của cấp trên.
Có thể hiểu biện pháp quản lý là tổng thể cách thức tác động của chủ thể quản
lý lên đối tƣợng quản lý trong quá trình tiến hành các hoạt động nhằm đạt đƣợc
mục tiêu đề ra.
Các biện pháp quản lý rất đa dạng đòi hỏi nhà quản lý phải biết lựa chọn và sử
dụng linh hoạt, sáng tạo để xử lý các tình huống trong từng trường hợp cụ thể giúp hoạt
động quản lý đạt hiệu quả tối ưu. Đó cũng chính là nghệ thuật quản lý.
1.2.1.5. Cơ sở tâm lý học quản lý
Bản thân mỗi con người đều là một cá thể tâm lý nhất định. Do vậy, trước những
tình huống cụ thể thì mỗi người thường có những thái độ, phản ứng và đưa ra những nhận
11
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét