Thứ Tư, 25 tháng 5, 2016
Bước đầu áp dụng biện pháp nhận thức hành vi cho bệnh nhân có rối loạn trầm cảm ở Bệnh viện Tâm thần Huế
- Phỏng vấn, tìm hiểu thông tin về bệnh nhân, và những yếu tố ảnh hưởng
đến trầm cảm của bệnh nhân.
- Định hình từng trường hợp bệnh nhân
- Mô tả quá trình sử dụng liệu pháp nhận thức hành vi trị liệu bệnh nhân trầm
cảm, từ đó đưa ra những đánh giá chung về kết quả đạt được.
6. Giới hạn nghiên cứu
6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi chỉ áp dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và
hoạt hóa hành vi trong liệu pháp nhận thức hành vi để trị liệu cho bệnh nhân trầm cảm.
6.2. Giới hạn khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 7 bệnh nhân có rối loạn trầm cảm đã được
chuẩn đoán và điều trị tại Khoa Tâm Lý Lâm Sàng – Bệnh viện Tâm Thần Huế.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
7.2. Phương pháp nghiên cứu quan sát
7.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp ca
7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.5. Phương pháp sử dụng test đánh giá
7.6. Phương pháp thực nghiệm
8. Đóng góp nghiên cứu
- Tìm ra những yếu tố liên quan đến hiệu quả khi áp dụng trị liệu nhận thức
hành vi đối với bênh nhân trầm cảm đồng thời đề xuất biện pháp khắc phục những
khó khăn đó.
- Nghiên cứu này có thể làm tài liệu tham khảo cũng như cơ sở để các nhà
tâm lý nghiên cứu sâu hơn về việc thích nghi hóa liệu pháp nhận thức hành vi cho
bệnh nhân trầm cảm.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương :
Chương 1: Cở sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
11
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu về trầm cảm ở nước ngoài
Trầm cảm là một tình trạng bệnh lý có tỷ lệ gặp cao ở các nước trên thế giới.
Nhiều nghiên cứu đã được triển khai nhằm xác định bệnh lý này. Theo thống kê của
một số nước châu Âu, rối loạn trầm cảm dao động từ 3- 4% dân số. Một nghiên cứu
ở Ucraina của Tintle N (2011) cho kết quả 14,4% phụ nữ và 7,1% nam giới độ tuổi
từ 50 trở lên bị trầm cảm [30]
Năm 1961, Aaron Beck và cộng sự đã cho rằng vấn đề nhận thức có vai trò
quan trọng trong trầm cảm.Tác giả cho rằng trầm cảm phát sinh là do con người
thường giải thích và nhìn nhận sai lệch về nhừn tác nhân của môi trường tác động
vào cơ thể, chính vì vậy Beck đã dùng liệu pháp nhận thức để điều trị trầm cảm.[7]
Có rất nhiều công trình nghiên cứu dịch tễ học trầm cảm đã cho thấy số
lượng người có rối loạn trầm cảm không hề nhỏ. Theo Laura A. Pratt (2006), trong
vòng 2 tuần lễ có 5,4% người từ 12 tuổi trở lên bị trầm cảm. Khoảng 80% người bị
trầm cảm đã báo cáo bị ảnh hưởng đến khả năng làm việc, duy trì cuộc sống gia
đình và các hoạt động xã hội khác của họ. Tổng thiệt hại ước tính khoảng 2/3 trong
tổng 80 tỷ USD trong năm 2000 vì khả năng sản xuất kém và hay nghỉ việc [21].
Cũng trong một nghiên cứu về tỷ lệ trầm cảm tác giả Scott B Patten (2006)
đưa ra tỷ lệ trầm cảm chung trong cả cuộc đời là 12,2%, trầm cảm trong năm qua là
4,8%, trầm cảm trong 30 ngày qua là 1,8%. Trầm cảm chủ yếu phổ biến ở phụ nữ
(5%) hơn ở nam giới (2,9 %) [33].
Khi nghiên cứu các yếu tố liên quan đến trầm cảm tác giả Egede (2010)
(Diabetes and depression: Global perspectives), đã cho rằng đái tháo đường và trầm
cảm là 2 bệnh liên quan chặt chẽ với gánh nặng bệnh tật, tử vong và chi phí chăm
sóc sức khỏe. Sự song hành của trầm cảm và đái tháo đường có liên quan đến giảm
khả năng điều trị, giảm chuyển hóa, tăng biến chứng, giảm chất lượng cuộc sống,
tăng chi phí điều trị, tăng mức độ tàn tật và giảm khả năng lao động và tất yếu gia
tăng nguy cơ tử vong. Khoảng 60% bệnh nhân HIV/AIDS bị trầm cảm [39].
12
Theo Tạp chí Substance Abuse and Mental Health Services Administration
(2008), nghiên cứu trầm cảm ở nhóm người đang làm việc độ tuổi 18-64 cho thấy tỷ
lệ trầm cảm ở các nhóm nghề nghiệp khác nhau: Người làm công việc chăm sóc cá
nhân và dịch vụ là 10,8%, chế biến thực phẩm 10,3%, công tác xã hội 9,6%, chăm
sóc sức khỏe và kỹ thuật 9,6%, làm nghệ thuật, thiết kế, quảng cáo, thể thao, truyền
thông: 9,1% [25], [28].
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu trầm cảm ở Việt Nam
Ở Việt Nam, theo nhiều nghiên cứu khác nhau về dịch tễ học trầm cảm thấy tỷ
lệ mắc rối loạn trầm cảm trong cộng đồng khoảng từ 3 đến 8%. Đối với các nghiên cứu
ở đối tượng đặc biệt như người cao tuổi, phụ nữ sau sinh cho thấy tỷ lệ mắc trầm cảm
cao hơn nhiều. Theo Nguyễn Văn Siêm (2010) nghiên cứu tại xã Quất Động, Thường
Tín Hà Tây cho thấy tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm là 8,35% dân số ≥ 15 tuổi. Tỷ lệ bệnh
nhân nữ/ nam là 5/1. Tỷ lệ mắc ở độ tuổi 30-59 là 58,21%, từ 60 tuổi trở lên là 36,9%.
Tỷ lệ mới mắc là 0,48%. Đại đa số bệnh nhân (94,24%) mắc bệnh trên 1 năm. Số mắc
bệnh trên 4 năm có tỷ lệ 70,3%. Tính chất tiến triển mạn tính rất rõ rệt (93,6% là trầm
cảm tái diễn). Các giai đoạn trầm cảm đơn độc chiếm 6,3% số ca. Trầm cảm tái diễn có
loạn thần tỷ lệ 2,3% và rối loạn cảm xúc lưỡng cực 3,46%. Các yếu tố tâm lý - xã hội
theo thứ tự tăng dần: sống độc thân, ly thân, góa bụa, stress cường độ mạnh, đông con,
stress trung bình, bệnh cơ thể [3],[6],[11]
Theo Trần Văn Cường (2001), điều tra dịch tễ 10 bệnh tâm thần tại 8 địa
điểm của các vùng sinh thái khác nhau, cho kết quả về tỷ lệ mắc các bệnh tâm thần
là 12,5%, trong đó rối loạn trầm cảm F 32: 2,47%; rối loạn lo âu F 41: 2,27% dân
số. Tỷ lệ bệnh nhân khám tại các cơ sở y tế nhà nước là 31,9%; tại các cơ sở y tế tư
nhân là 21,9% và số bệnh nhân chưa bao giờ đi khám là 68,5%. Thái độ của gia
đình, cộng đồng đối với người bệnh còn xa lánh, hắt hủi chiếm 68,5% [4],[7]
Năm 2000, Trần Viết Nghị và cộng sự đã điều tra dịch tễ 10 bệnh tâm thần
tại phường Gia Sàng - thành phố Thái nguyên cho thấy các tỷ lệ như sau: bệnh tâm
thần phân liệt F 20: 0,26%; rối loạn trầm cảm F 32: 2,6%; rối loạn lo âu F 41:
2,98% [10].
Theo tác giả Hồ Ngọc Quỳnh (2009) nghiên cứu trầm cảm ở sinh viên điều
dưỡng và y tế công cộng tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ mắc trầm cảm ở
13
sinh viên y tế công cộng lên tới 17,6%, ở sinh viên điều dưỡng là 16,5% và liên
quan tới một số yếu tố như sự quan tâm của cha mẹ, gắn kết với nhà trường, thành
tích học tập, quan hệ xã hội, tự nhận thức về bản thân [11].
Trầm cảm ở đối tượng đặc biệt như phụ nữ sau sinh, theo tác giả Lương
Bạch Lan (2009), tỷ lệ mắc trầm cảm ở các bà mẹ sau sinh là 11,6%, các yếu tố liên
quan làm gia tăng tỷ lệ trầm cảm như thời gian nằm viện của con trên 30 ngày,
không khỏe khi mang thai, tử vong sơ sinh [9].
1.2. Một số khái niệm liên quan
1.2.1. Khái niệm về trầm cảm
Trầm cảm (depression disorder) là một rối loạn về cảm xúc, có đặc điểm chung
là bệnh nhân thấy buồn chán, mất sự hứng thú, cảm thấy tội lỗi hoặc giảm giá trị bản
thân, khó ngủ hoặc sự ngon miệng, khả năng làm việc kém và khó tập trung. Trầm cảm
có thể trở thành mãn tính hoặc tái phát và làm giảm khả năng của cá nhân trong thích
ứng với cuộc sống, trong trường hợp nặng nhất, trầm cảm có thể dẫn tới tự sát. Hầu hết
các ca bệnh trầm cảm có thể điều trị bằng thuốc hoặc liệu pháp tâm lý.[15]
Thuật ngữ trầm cảm hay sầu uất “Mélancholie” được Hippocrate (460-377 trước
công nguyên) dùng để mô tả một số rối loạn tâm thần có biểu hiện rối loạn khí sắc.
Năm 1686 Bonet mô tả một bệnh tâm thần mà ông gọi là bệnh hưng cảm sầu uất “Maniaco-Mélancoliants”. Sau đó E. Esquirol tách ra từ các bệnh loạn thần
bộ phận (Folies partielles) một thể trầm cảm và gọi là cơn hoang tưởng buồn rầu.
Năm 1882, K. Kahlbaum dùng thuật ngữ “Cyclothymia” (Bệnh khí sắc chu kỳ) mô
tả hưng cảm, trầm cảm như các giai đoạn của cùng một bệnh. [23]
E.Kraepelin (1899), dựa trên các biểu hiện lâm sàng và tính chất tiến triển
của các bệnh do các nhà tâm thần học Pháp và Đức mô tả trên, thống nhất lại thành
một thể bệnh và gọi là bệnh loạn thần hung - trầm cảm. Trước những năm 80 của
thế kỷ XX, rối loạn trầm cảm (R LTC) được mô tả như một giai đoạn của bệnh
loạn thần hưng - trầm cảm. Các tiến bộ quan trọng trong việc mô tả, phân loại các
RLTC trong 30 năm qua đã giúp thúc đẩy các nghiên cứu quan trọng về dịch tễ,
bệnh nguyên và bệnh sinh các RLTC này một cách chi tiết, hợp lý.[24]
TC điển hình được mô tả bằng sự ức chế toàn bộ các quá trình hoạt động tâm
thần biểu hiện bằng 3 triệu chứng đặc trưng sau: Khí sắc trầm: biểu hiện bằng nét
14
mặt, dáng điệu buồn rầu, ủ rũ. Mất hoặc giảm sự quan tâm thích thú: không quan tâm
đến mọi việc, không còn ham thích gì kể cả vui chơi. Mất hoặc giảm năng lượng, giảm
hoạt động: dễ mệt mỏi không còn sức lực chỉ sau một cố gắng nhỏ. Các triệu chứng
phổ biến khác của TC bao gồm: (1) mất hoặc khó tập trung chú ý; (2) giảm sút tính tự
trọng và lòng tự tin; (3) tự cho mình là không xứng đáng, hoặc có ý tưởng bị buộc tội,
bị khuyết điểm; (4) nhìn tương lai ảm đạm, bi quan, đen tối; (5) có ý tưởng, hành vi tự
hủy hoại hoặc tự sát; (6) rối loạn giấc ngủ; (7) ăn ít ngon miệng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn TC theo ICD 10: (1) Trầm cảm nhẹ, phải có
2/3 triệu chứng đặc trưng của TC và phải có ít nhất 2/7 triệu chứng phổ biến khác
của TC. (2) Trầm cảm vừa, phải có ít nhất 2/3 triệu chứng đặc trưng của trầm cảm
và phải có ít nhất 3/7 triệu chứng phổ biến khác của trầm cảm. (3) Trầm cảm nặng,
phải có 3/3 triệu chứng đặc trưng của trầm cảm và phải có ít nhất 4/7 triệu chứng
phổ biến khác của trầm cảm.[2], [3].
1.2.2. Khái niệm về tâm lý trị liệu
Có nhiều khái niệm khác nhau về tâm lý trị liệu:
Tâm lý trị liệu (còn gọi là tâm lý liệu pháp) là: “Điều trị các vấn đề tâm lý, cảm xúc
bằng các phương pháp tâm lý. Trong tâm lý liệu pháp, bệnh nhân trò chuyện với
nhà trị liệu về các triệu chứng và các vấn đề mà họ mắc phải và thiết lập mối quan
hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Mục đích của quá trình này là giúp bệnh nhân tìm
hiểu chính họ, tạo nên một cái nhìn mới về các mối quan hệ trong quá khứ và hiện
tại, thay đổi những hành vi đã định hình của người bệnh.[8]
Qua định nghĩa trên ta thấy các yếu tố nổi bật là :
- Mối quan hệ giữa nhà trị liệu và thân chủ thông qua trò chuyện
- Tạo nên một cái nhìn mới
- Thay đổi về các hành vi đã được định hình.
- Từ điển Wikipedia định nghĩa "Tâm lý trị liệu" (Psychotherapy) là một hệ
thống các kỹ thuật được thực hiện nhằm cải thiện sức khỏe tinh thần, cải thiện các
vấn đề cảm xúc và hành vi của các cá nhân - những người được gọi là “thân chủ”.
Những vấn đề này thường khiến cho con người cảm thấy khó khăn trong việc tự
quản lý cuộc sống và đạt đến các mục đích mong muốn của mình. Tâm lý trị liệu
nhắm đến giải quyết các vấn đề này, thông qua một số những phương pháp và kỹ
15
thuật khác nhau; và chúng được thực hiện bởi những người gọi là “nhà trị liệu”
(những chuyên viên được đào tạo về tâm lý trị liệu.
Như vậy, khác với sự giúp đỡ từ một người thân quen thường gặp trong đời
sống, sự hỗ trợ trong tâm lý trị liệu được tiến hành bởi một nhà trị liệu được đào tạo
chuyên nghiệp để có thể làm chức năng hỗ trợ người khác mà không nhất thiết phải
trở nên gắn kết với thân chủ của mình về mặt đời sống riêng tư. Tâm lý trị liệu, nói
chung, nhắm đến việc làm tăng trưởng nhân cách một con người theo chiều hướng
trưởng thành hơn, chín chắn hơn, và giúp người đó tự hiện thực hóa bản thân mình.
1.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán
Dù ở mức độ nào điển hình, không điển hình, mức độ nặng, trung bình, hay
nhẹ, chẩn đoán trầm cảm ở Việt Nam trong những năm gần đây đều được áp dụng
các nguyên tắc chẩn đoán đã được mô tả trong ICD-10.[2],[27]
Trong đó phải có các triệu chứng đặc trưng sau:
1. Khí sắc trầm
2. Mất quan tâm thích thú
3. Giảm năng lượng, dễ mệt mỏi dù chỉ sau một cố gắng nhỏ.
Và thường có những triệu chứng phổ biến khác là:
1. Giảm sút sự tập trung và chú ý
2. Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin
3. Có ý tưởng bị tội, không xứng đáng
4. Nhìn vào tương lai ảm đạm, bi quan
5. Ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại cơ thể hoặc tự sát 6. Rối loạn giấc ngủ
6. Ăn ít ngon miệng - Khi trầm cảm nặng thường có triệu chứng “sinh học”,
trầm cảm đó là: sút cân (5% trọng lượng cơ thể trong vòng 4 tuần), giảm dục năng,
ít ngủ, thức giấc sớm, sững sờ.
Tình trạng bệnh lý này thường kéo dài ít nhất 2 tuần.
Ngoài ra còn có các thang đánh giá trầm cảm đang được sử dụng như thang
phát hiện trầm cảm Beck, thang đánh giá trầm cảm Hamilton, thang đánh giá trầm
cảm Raskin... Trong số này có hai thang thông dụng nhất được sử dụng ở Việt Nam
là thang Beck và thang Hamilton. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng các thang
đánh giá trầm cảm 21 mục của Beck.Thang trầm cảm của Beck đã được sử dụng
16
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét