Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2016
Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học phổ thông tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay
- Số trường THPT trên địa bàn tỉnh: 25 trường
- Số CBQL trường THPT toàn tỉnh: 81 người
- Khảo sát ý kiến đánh giá của GV THPT về CBQL : 75 người.
- Khảo sát ý kiến đánh giá cán bộ lãnh đạo và chuyên viên GD&ĐT về
CBQL trường THPT: 25 người.
- Lãnh đạo Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, phòng chuyên môn văn phòng Uỷ ban
nhân dân (UBND), Sở Nội vụ: 5 người.
- Bảng câu hỏi trưng cầu ý kiến được cấu trúc sẵn
7.3. Nhóm phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp này giúp nhà nghiên cứu tổng kết những bài học kinh nghiệm
trong giáo dục. Chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu kém, những tồn tại để có phương
hướng khắc phục. Luận văn đã sử dụng phương pháp tổng kết kinh nghiệm để
tổng kết kinh nghiệm phát triển đội ngũ CBQL trường THPT tỉnh Lạng Sơn
trong những năm qua.
7.4. Nhóm phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia
Luận văn sử dụng phương pháp chuyên gia để xin ý kiến đánh giá của
chuyên gia giáo dục, chuyên gia của những ngành có liên quan về các nội
dung nghiên cứu. Đánh giá về công tác phát triển và các giải pháp phát triển
đội ngũ CBQL trường THPT được đề xuất trong Luận văn.
7.5. Phương pháp thống kê toán học
Là phương pháp thường dùng trong toán học, sử dụng các công thức
toán học để thống kê số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, học sinh
và xử lý các số liệu thống kê được nhằm đưa ra các kết luận phục vụ cho công
tác nghiên cứu.
8. Đóng góp mới của Luận văn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác phát triển
đội ngũ CBQL, công tác quản lý của Sở GD&ĐT, sự phối hợp trong công tác
5
xây dựng và phát triển đội ngũ giữa Sở Nội vụ và Sở GD&ĐT trong công tác
phát triển đội ngũ CBQL các trường THPT.
Luận văn đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường THPT
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Giúp cho các cơ quan quản lý giáo dục có kế
hoạch và làm tốt hơn trong công tác phát triển đội ngũ CBQL trường THPT trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
9. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo
và phần phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ CBQL trường THPT
Chƣơng 2. Thực trạng phát triển đội ngũ CBQL trường THPT trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn
Chƣơng 3. Biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường THPT trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay
6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
QUẢN LÝ TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Cuối thế kỷ XVIII, Robert Owen (1771- 1858), Charles Babbage
(1792-1871) ở Phương tây đã đưa ra ý tưởng: muốn tăng năng xuất lao động,
cần phải tập trung vào giải quyết một số yếu tố chủ yếu như phúc lợi, giám sát
công nhân, mối quan hệ giữa người quản lý và người bị quản lý và đặc biệt
nâng cao trình độ quản lý cho các nhà quản lý. Tiếp đó Fredrick Winslow
Taylor (1856-1915) với 04 nguyên tắc quản lý khoa học, đã đề cập nâng cao
chất lượng của người quản lý [20, tr.89].
Tại pháp, Henri Fayol (1841- 1951) đã đưa ra 05 chức năng cơ bản của
quản lý. Theo ông, nếu người quản lý có đủ phẩm chất và năng lực kết hợp
nhuần nhuyễn các chức năng, các quy tắc và nguyên tắc quản lý thì thực hiện
được mục tiêu quản lý và dẫn đến thực hiện được mục tiêu tổ chức [20,tr.42].
Đến những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, khi các khái niệm
“vốn con người” (Human capital) “nguồn lực con người” (Human resources)
xuất hiện ở hoa kỳ và sau đó thịnh hành trên thế giới thì vấn đề pháp triển đội
ngũ CBQL cũng được giải quyết với tư cách là pháp triển nguồn nhân lực của
- một ngành, một lĩnh vực. Tuy nhiên, nội dung giải quyết vấn đề có sự khác
nhau ở nhiều mức độ và phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thực tế ở mỗi quốc
gia và mỗi giai đoạn lịch sử.
Vào thập niên 70-80 của thế kỷ XX, một trường phái tiếp cận về quản lý
trên cơ sở xem xét những yếu tố văn hóa đã xuất hiện trong đó có nêu những
nét văn hóa quản lý vừa thể hiện ở phẩm chất vừa thể hiện ở năng lực người
quản lý. Cũng trong thời kỳ này, việc nghiên cứu quản lý trên cơ sở xem xét
tổng thể, thì lý thuyết sơ đồ 7S: Structure (cơ cấu), stratery (chiến lược), skills
(các kĩ năng), style (phong cách), system (hệ thống) và shred value (các giá trị
chung) và đặc biệt là staff (đội ngũ) đã xuất hiện. Khi phân tích về đội ngũ
7
người đọc thấy được về giá trị chất lượng đội ngũ quản lý trong việc đạt tới
mục tiêu của tổ chức [9,tr.28]
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) rất quan tâm về công tác cán bộ
người khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “có cán bộ tốt thì
việc gì cũng song" [37].
Các nhà khoa học Việt Nam đã chắt lọc những vấn đề tinh túy nhất của
hầu hết các tác phẩm về QL của nước ngoài để thể hiện trong các công trình
nghiên cứu của mình. Kiều Nam với cuốn Tổ chức bộ máy lãnh đạo và quản
lý (NXB Sự thật, Hà Nội – 1983); Nguyễn Minh Đạo với cuốn Cơ sở của
Khoa học quản lý (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1997); Đỗ Hoàng Toàn
với cuốn khoa học và quản lý – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Trung tâm
nghiên cứu khoa học tổ chức và quản lý NXB Thống kê, Hà Nội – 1999)… đã
đề cập đến nhiều khía cạnh quan trọng của đội ngũ CBQL của 1 tổ chức,
trong đó có chất lượng của đội ngũ CBQL.
Với góc độ QLGD, các nhà khoa học Việt Nam đã tiếp cận QL trường
học chủ yếu dựa trên nền tảng lý luận GD học. Hầu hết các cuốn giáo dục học
của các tác giả Việt Nam có đề cập tới chất lượng và phương thức nâng cao
chất lượng CBQL trường học thông qua việc phân tích thành tố lực lượng
giáo dục. Như cuốn phương pháp luận khoa học giáo dục (Phạm Minh Hạc –
Tổng chủ biên, 1981, Viện khoa học giáo dục ấn hành); Quá trình sư phạm –
bản chất, cấu trúc và tính quy luật của tác giả Hà Thế Ngữ , 1986; Giáo dục
học đại cương của các tác giả Sinh Huy và Nguyễn Văn Lê, 1999: Tuyển tập
giáo dục học – một số vấn đề lý luận thực tiễn của tác giả Hà Thế Ngữ, 2001.
Kiểm định chất lượng giáo dục đại học của tác giả Nguyễn Đức Chính (chủ
biên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
Khi đề cập đến phát triển đội ngũ CBQL, ngoài sự thống nhất về nội
dung, các nhiệm vụ với phát triển nguồn nhân lực, thời gian gần đây các nghiên
cứu đều đề cao việc thúc đẩy phát triển bền vững và thích ứng nhanh của mỗi
8
giáo viên và của cả đội ngũ. Trong đó sự xuất hiện công nghệ dạy học mới, sự
phát triển của thế giới ngày nay yêu cầu thay đổi vai trò và phương pháp của
người thầy càng trở nên cấp thiết. Những năm gần đây dưới sự chỉ đạo của Bộ
GD&ĐT, nhiều giải pháp để phát triển đội ngũ CBQL đã được nghiên cứu và
áp dụng. Đặc biệt từ khi chúng ta thực hiện đổi mới nội dung chương trình,
sách giáo khoa thì nhiều dự án và công trình khoa học liên quan đến đội ngũ
CBQL ở tất cảc các cấp học đã được thực hiện. Có thể kể đến các công trình
như: “Đại cương về quản lý” (giáo trình dành cho các lớp cao học QLGD),
“Quản lý đội ngũ" của các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc….
Đã có một số luận văn thạc sĩ QLGD nghiên cứu, đề xuất các biện pháp
triển đội ngũ CBQL trường THCS trên một địa bàn cấp huyện hoặc đã đề cập
đến đối tượng CBQL trường THPT nhưng mới đi sâu vào một nội dung là
quy hoạch đội ngũ.
Tóm lại, có thể nhìn nhận: Vấn đề phát triển đội ngũ CBQL trường
THPT với tư cách là nguồn nhân lực của các cấp học là một nội dung quan
trọng, cấp thiết, thu hút sự nghiệp nghiên cứu của nhiều cơ quan và nhà khoa
học. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và có những thành tựu quan trọng về
vấn đề này. Tuy nhiên việc ứng dụng kết quả của các trình đó vào thực tế để
đề ra những các biện pháp phát triển đội ngũ CBQL THPT nói chung và đội
ngũ CBQL trường THPT trên địa bàn Lạng Sơn một cách toàn diện. Đó là
nội dung chính mà đề tài tiếp tục nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
Quản lý được Các-Mác coi là chức năng đặc biệt sinh ra từ tính chất xã
hội hoá (XHH) lao động: “Bất kỳ một lao động xã hội hay một công việc nào
được tiến hành trên quy mô tương đối lớn cũng đều có sự quản lý, nó xác định
được mối quan hệ hài hoà giữa các công việc riêng lẻ và thực hiện những chức
năng chung nhất, xuất phát từ sự vận động của toàn bộ cơ cấu sản xuất” [12].
9
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, quản lý (management) là quá
trình điều khiển và hướng dẫn tất cả các bộ phận của một tổ chức, thông qua
việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tư),
tri thức và giá trị vô hình.
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Bản chất hoạt động QL gồm hai quá
trình tích hợp vào nhau: quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở
trạng thái ổn định; quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ đưa
vào thế “phát triển”… Trong “quản” phải có “lý”, trong “lý” phải có “quản”
để động thái của hệ ở thế cân bằng động: hệ vận động phù hợp, thích ứng và
có hệ quả trong mối tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các
nhân tố bên ngoài (ngoại lực) [2].
Những khái niệm trên tuy có khác nhau về cách tiếp cận và cách diễn đạt
nhưng đều có chung một số dấu hiệu cơ bản. Xét quản lý với tư cách là một hành
động, có thể định nghĩa: QL là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ
thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện
biến động của môi trường. Hoạt động QL được thể hiện qua sơ đồ sau:
Công cụ
quản lý
Chủ thể quản lý
Môi trường
quản lý
Mục tiêu, nội dung
quản lý
Khách thể quản
lý
Phƣơng pháp
quản lý
Hình 1.1: Mô hình quản lý
(Nguồn: Bài giảng cơ sở khoa học quản lý - Nguyễn Thị Mỹ Lộc)
10
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét