Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016

Đánh giá độ hiệu lực của bảng kiểm hành vi trẻ em Achenbach-phiên bản Việt Nam(CBCL-V) trên nhóm bệnh nhân

ix MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội hiện đại, con ngƣời đã quan tâm nhiều hơn đến chất lƣợng cuộc sống cũng nhƣ sức khỏe của bản thân. Ngoài việc chăm sóc để có một thể chất khỏe mạnh, con ngƣời đã dần nâng cao nhận thức và quan tâm chăm sóc nhiều hơn đến sức khỏe tâm thần vì sức khỏe tâm thần là một phần không thể thiếu của sức khỏe [11] nhƣ Tổ chức Y tế Thế giới đã định nghĩa: “Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật” [58]. Các nƣớc trên thế giới đã có những bƣớc chuyển biến nhất định trong việc nghiên cứu về lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tâm thần, đặc biệt là lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tâm thần trẻ em và vị thành niên. Tuy nhiên, ở Việt Nam, lĩnh vực này còn chƣa đƣợc các cấp lãnh đạo thực sự quan tâm ở mức cần thiết [4]. Đã có một số nghiên cứu đã đƣợc tiến hành trong nƣớc đánh giá về thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần của trẻ em và vị thành niên. McKelvey và cộng sự (1999) đã báo cáo tỷ lệ trẻ có các vấn đề sức khỏe tâm thần trên mức ranh giới ở hai phƣờng trên địa bàn Hà Nội là 8,2% [45]. Ngô Thanh Hồi và cộng sự (2007) báo cáo nghiên cứu của bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hƣơng cho thấy học sinh trong các trƣờng nội thành Hà Nội có tỷ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần là 19,4% [2]. Nghiên cứu của Đặng Hoàng Minh Hoàng Cẩm Tú (2010) và trên học sinh ở hai trƣờng Hà Nội và Hà Tây cho thấy tỷ lệ trẻ em mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần chiếm 22,55% [7]. Nghiên cứu của Nguyễn Cao Minh về tỷ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ vị thành niên miền Bắc (2012) cho thấy tỷ lệ này là 18% [8]. Gần đây nhất, trong cuốn “Sức khỏe tâm thần trẻ em Việt Nam: thực trạng và các yếu tố nguy cơ” do Đặng Hoàng Minh chủ biên (2013) đã báo cáo tỷ lệ trẻ em và vị thành niên có các vấn đề sức khỏe tâm thần là 11,9% [6]. 1 Các con số về thực trạng trẻ em và vị thành niên có các vấn đề sức khỏe tâm thần không phải là nhỏ, nhƣng trong thực tế hiện nay, trẻ em và vị thành niên có các vấn đề sức khỏe tâm thần khi đến khám và điều trị tại các cơ sở thăm khám tâm lý, tâm thần thì hầu nhƣ rất ít có những công cụ sàng lọc đủ độ tin cậy, đủ độ hiệu lực để đánh giá chính xác vấn đề mà trẻ gặp phải. Những công cụ này hầu nhƣ là những công cụ nguyên bản, chƣa đƣợc chuẩn hóa theo đúng quy trình cho phù hợp với văn hóa, xã hội Việt Nam, hoặc đƣợc sử dụng không đúng mục đích, dẫn đến việc khó khăn trong chẩn đoán, điều trị và can thiệp. Trong một nghiên cứu của Nguyễn Thị Mai (2013) về tỷ lệ trầm cảm ở trẻ em tuổi học đƣờng, tỷ lệ khách thể nghiên cứu có trầm cảm lên tới 70,4% khi sử dụng bảng tự đánh giá trầm cảm Beck 13 câu – đƣợc dịch từ bản nguyên gốc sang tiếng Việt và đƣa vào sử dụng nhiều năm nay ở nhiều cơ sở khám chữa bệnh chuyên khoa tâm [5]. Nhƣ vậy nhu cầu có những thang đo đƣợc chuẩn hóa để sử dụng trong việc sàng lọc, đánh giá các vấn đề sức khỏe tâm thần trong các bệnh viện tâm thần, các cơ sở khám, tƣ vấn và điều trị chuyên khoa tâm thần là rất lớn. Một trong những công cụ đánh giá các vấn đề sức khỏe tâm thần của em đƣợc biết đến nhiều nhất trên thế giới là Bảng Kiểm hành vi trẻ em (CBCL) do Achenbach nghiên cứu và phát triển từ những năm đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ 20 và đƣợc báo cáo lần đầu tiên trong một nghiên cứu về sự phát triển của trẻ em năm 1965 [59]. Trên thế giới, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tỷ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần sử dụng Bảng kiểm hành vi trẻ em CBCL ở nhiều phiên bản khác nhau nhƣ là một công cụ đánh giá tốt nhất để sàng lọc các vấn đề sức khỏe tâm thần. Klasen và cộng sự (2000) đã tiến hành nghiên cứu CBCL – phiên bản tiếng Đức và so sánh với Bảng hỏi điểm mạnh và khó khăn của trẻ em (SDQ). 2 Kết quả thu đƣợc cho thấy, giống nhƣ phiên bản gốc tiếng Anh, phiên bản tiếng Đức của CBCL cho giá trị tƣơng quan cao với SDQ và đạt độ hiệu lực, độ tin cậy cao cho cả hai mục đích nghiên cứu và lâm sàng [40]. Ehsan và cộng sự (2009) đã nghiên cứu so sánh CBCL phiên bản tiếng Urdu – là ngôn ngữ đƣợc sử dụng rộng rãi tại Pakistan – với SDQ phiên bản tiếng Urdu ở trƣờng tiểu học Karachi, Pakistan. Kết quả cho thấy có tƣơng quan cao giữa điểm số của hai bảng hỏi và phiên bản tiếng Urdu của CBCL cho kết quả giá trị tƣơng đƣơng với phiên bản gốc tiếng Anh, và là một công cụ đánh giá có độ tin cậy và độ hiệu lực cao cho cả hai mục đích nghiên cứu và lâm sàng [32]. Một nghiên cứu dịch tễ khác về tỷ lệ trẻ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần sử dụng CBCL nhƣ là một công cụ đánh giá có độ hiệu lực, độ nhạy cao là Helga và Sif (1995) nghiên cứu về tỷ lệ trẻ em Iceland mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần sử dụng CBCL để sàng lọc. Nghiên cứu cũng so sánh kết quả này với các mẫu nghiên cứu tại Hà Lan, Mỹ, Pháp, Canada, Đức và Chi Lê và kết quả cho thấy giá trị tƣơng đƣơng [36]. Ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều nghiên cứu sử dụng CBCL là công cụ sàng lọc các vấn đề sức khỏe tâm thần. Mc Kelvey và cộng sự (1999) đã nghiên cứu xác định tỷ lệ của các vấn đề cảm xúc hành vi ở trẻ em Việt Nam sống tại Hà Nội có sử dụng Bảng kiểm hành vi trẻ em CBCL nhƣ một công cụ sàng lọc và kết quả đƣợc so sánh với điểm tiêu chuẩn của Mỹ [45]. Năm 2009, dƣới sự cho phép của chính tác giả T.M. Achenbach, Đặng Hoàng Minh và cộng sự đã thích nghi và sử dụng CBCL trong khuôn khổ nghiên cứu “Thực trạng sức khỏe tâm thần ở học sinh Trung học cơ sở và nhu cầu tham vấn sức khỏe tâm thần học đường” [7]. 3 Năm 2011, trong khuôn khổ dự án Dịch tễ học các vấn đề sức khỏe tâm thần trẻ em Việt Nam, Bảng Kiểm hành vi trẻ em CBCL đã đƣợc sự đồng ý của tác giả T.M. Achenbach cho phép sử dụng trong nghiên cứu và ủy quyền bản quyền cho Trung tâm Thông tin hƣớng nghiệp và Nghiên cứu ứng dụng tâm lý thuộc Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội chuẩn hóa tại Việt Nam để nghiên cứu thực trạng sức khỏe tâm thần trẻ em Việt Nam. Tuy nhiên, mẫu chuẩn hóa này mới chỉ tiến hành nghiên cứu trên nhóm cộng đồng mà chƣa có nghiên cứu nào trên nhóm bệnh nhân cũng nhƣ so sánh với nhóm bệnh nhân – là những đối tƣợng đến hoặc đƣợc đƣa đến khám tại các cơ sở khám, tƣ vấn và điều trị các vấn đề sức khỏe tâm thần – mà theo thực tế thì đây là những đối tƣợng chắc chắn gặp nhiều vấn đề về sức khỏe tâm thần hơn nhóm trẻ trong cộng đồng. Vì tất cả những lý do trên, ngƣời nghiên cứu mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Đánh giá độ hiệu lực của Bảng kiểm hành vi trẻ em Achenbach – phiên bản Việt (CBCL-V) trên nhóm bệnh nhân” với mục đích đánh giá độ hiệu lực của thang đo CBCL phiên bản Việt Nam, đồng thời bƣớc đầu cung cấp số liệu cho việc xây dựng điểm ranh giới chuẩn cho Bảng kiểm hành vi trẻ em CBCL – phiên bản Việt Nam, từ đó đƣa ra những bằng chứng mang tính khoa học về việc sử dụng bộ công cụ CBCL-V nhƣ là một công cụ sàng lọc hiệu quả nhất về các vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em hiện nay ở Việt Nam cũng nhƣ xu hƣớng trên toàn thế giới. 2. Mục đích nghiên cứu Đánh giá độ hiệu lực (Validity) của Bảng kiểm hành vi trẻ em Achenbach – phiên bản Việt Nam (CBCL-V) nhằm khẳng định CBCL-V là bộ công cụ sàng lọc có hiệu quả cao trong lĩnh vực đánh giá và chẩn đoán các vấn đề SKTT. 4 3. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Độ hiệu lực của Bảng kiểm hành vi trẻ em Achenbach – phiên bản Việt Nam (CBCL-V). 3.2. Khách thể nghiên cứu - 208 khách thể là trẻ em đến khám và điều trị tại 03 bệnh viện chuyên khoa tâm thần tại Hà Nội đƣợc các bác sỹ chuyên khoa tâm thần, các cán bộ tâm lý giới thiệu tham gia nghiên cứu. - Đối tƣợng cung cấp thông tin: cha mẹ, ngƣời giám hộ hợp pháp hoặc ngƣời chăm sóc. 3.3. Địa điểm nghiên cứu - Chúng tôi tiến hành lựa chọn 03 địa điểm nghiên cứu là các khoa, viện và bệnh viện chuyên khoa về khám bệnh, tƣ vấn và điều trị các vấn đề sức khỏe tâm thần trên địa bàn Hà Nội. Đó là các cơ sở: + Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia – Bệnh viện Bạch Mai. + Bệnh viện Tâm thần Ban ngày Mai Hƣơng. + Khoa Tâm bệnh – Bệnh viện Nhi trung ƣơng. - Lý do chọn địa điểm nghiên cứu: Do điều kiện hạn chế của khuôn khổ một luận văn cao học, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu tại các bệnh viện trên địa bàn Hà Nội, nhƣng vẫn cố gắng đảm bảo tiêu chí đa dạng về chọn mẫu. 4. Giả thuyết nghiên cứu Bảng Kiểm hành vi trẻ em CBCL phiên bản tiếng Việt có độ hiệu lực cao trên nhóm bệnh nhân. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận cho đề tài và các khái niệm công cụ. - Điều tra bằng bảng hỏi tại các địa điểm nghiên cứu đã chọn. 5

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét