Thứ Tư, 13 tháng 4, 2016

Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay

7.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia Tham khảo ý kiến của lãnh đạo huyện; lãnh đạo, chuyên viên phòng GD-ĐT, một số CBQL trường tiểu học giỏi, những người có nhiều kinh nghiệm về công tác QLGD để đánh giá đúng thực trạng đội ngũ CBQL trường tiểu học và thực trạng công tác phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học huyện Trực Ninh, về các biện pháp cần thiết và khả thi để phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học huyện Trực Ninh giai đoạn 2010-2015. 7.2.5. Phương pháp khảo nghiệm Thu thập ý kiến của 50 người, gồm: lãnh đạo và chuyên viên Ban Tổ chức Huyện uỷ (4), Phòng Nội vụ (4), Phòng GD-ĐT (12), CBQL các trường tiểu (30) để khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất. Tổng hợp, phân tích kết quả thu được để đánh giá mức độ cần thiết và khả thi của các biện pháp. 7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ Dùng phương pháp thống kê toán học để tổng hợp, phân tích, xử lý các số liệu, từ đó đưa ra nhận xét và kết luận từng nội dung cụ thể. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung Luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lí luận về phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học. Chƣơng 2: Thực trạng phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Chƣơng 3: Các biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học huyện Trực Ninh trong giai đoạn hiện nay 5 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƢỜNG TIỂU HỌC 1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong những năm gần đây, vấn đề phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQLGD đã được đề cập nhiều trong chủ trương, đường lối, chính sách phát triển GD-ĐT của Đảng và Nhà nước. Vấn đề này cũng đã thu hút không ít sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà khoa học, đặc biệt các nhà nghiên cứu thuộc các học viện, các trường đại học. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết trên các sách báo, tạp chí, đi sâu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQLGD. Chẳng hạn: Tác giả Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Đắc Hưng trong cuốn Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai - Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004; Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc trong cuốn tài liệu Đào tạo giáo viên đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, Hà Nội, 2008; Tác giả Trần Khánh Đức trong cuốn Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009; Tác giả Nguyễn Trọng Hậu trong cuốn Đại cương khoa học quản lý giáo dục, Tập bài giảng cho học viên cao học QLGD, Hà Nội, 2009; Tác giả K.B.Everard, Geoffrey Morris - Ian Wilson trong cuốn Quản trị hiệu quả trường học, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009;… Một số luận văn cao học nghiên cứu về quy hoạch, quản lý phát triển đội ngũ CBQL trường học, quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên của một số địa phương như: - Quy hoạch phát triển đội ngũ CBQL trường THPT tỉnh Bắc Ninh từ 2005 2010 (Luận văn thạc sỹ của Đặng Văn Hướng, năm 2005). - Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên tiểu học ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục tiểu học trong giai đoạn hiện nay (Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Hồng Sơn, năm 2006). - Biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường THCS trên địa bàn huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc (Luận văn thạc sỹ của Lê Minh Tiến, năm 2008). 6 - Phát triển đội ngũ giáo viên tiểu học huyện Ý Yên tỉnh Nam Định đáp ứng chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học (Luận văn thạc sỹ của Phạm Mạnh Tuân, năm 2008)…. Các tác giả đã đã đề cập đến công tác xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL, giáo viên trong các trường từ phổ thông đến cao đẳng, đại học. Tuy vậy, các đề tài nói trên đều mang tính đặc thù, đi sâu nghiên cứu, áp dụng vào thực tế ở từng vùng, miền, từng địa phương và từng đơn vị, không thể áp dụng cho tất cả các địa phương, đơn vị nói chung. Riêng ở tỉnh Nam Định, cho đến nay, theo những tài liệu mà chúng tôi bao quát được vẫn chưa có tác giả nào đề cập đến công tác xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học một cách đầy đủ và có hệ thống. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu các biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết, nhằm góp phần vào việc cung cấp hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn, đề ra những giải pháp chủ yếu cho công tác phát triển CBQL trường tiểu học, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục huyện Trực Ninh và tỉnh Nam Định. 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1. Khái niệm về quản lý Lịch sử đã chứng minh rằng, để tồn tại và phát triển, ngay từ khi loài người xuất hiện trên trái đất, con người đã liên kết nhau thành các nhóm nhằm chống lại sự tiêu diệt của thú dữ và thiên nhiên. Đồng thời cũng xuất hiện hàng loạt các mối quan hệ: quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội và cả quan hệ giữa con người với chính bản thân mình. Trong quá trình đó đã xuất hiện một số người có năng lực chi phối được người khác, đồng thời cũng có khả năng điều khiển mọi hoạt động của nhóm sao cho phù hợp với mục tiêu chung, những người này đã đóng vai trò thủ lĩnh để quản lý nhóm và khi đó đã xuất hiện hoạt động quản lý. Như vậy, quản lý gắn liền với sự hoạt động của con người trong cuộc sống, quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động. C.Mác đã coi việc xuất hiện quản lý như là kết quả tất nhiên của sự chuyển nhiều quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình xã hội được phối hợp lại. C.Mác viết: "Bất cứ lao động hay lao động chung nào mà tiến hành trên 7 một quy mô khá lớn, đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân… Một nhạc sỹ độc tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng" [10, tr.350]. Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học) định nghĩa: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định, là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [51, tr.772]. Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì: “Quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [11, tr.1]. Theo Afanaxev: "Quản lý con người có nghĩa là tác động đến anh ta, sao cho hành vi, công việc và hoạt động của anh ta đáp ứng những yêu cầu của xã hội, tập thể, để những cái đó có lợi cho cả tập thể và cá nhân, thúc đẩy sự tiến bộ của cả xã hội đến cá nhân" [1, tr.27]. Harold Koontz, Cyril Odonnell và Heinz Weihrich đều cho rằng : “Quản lý là hoạt động đảm bảo sự phối hợp giữa nỗ lực các cá nhân nhằm đảm bảo mục tiêu quản lý trong điều kiện chi phí thời gian, công sức, tài lực, vật lực ít nhất đạt được kết quả cao nhất” [28, tr.33]. Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Các cách diễn đạt trên đây tuy khác nhau về hình thức song chúng có chung những nét đặc trưng cơ bản chủ yếu sau đây: - Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội; - Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích; - Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức; Như vậy, quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý, nhằm đạt mục tiêu đề ra; giữa chủ thể quản lý và khách thể 8 quản lý có mối quan hệ tác động qua lại tương hỗ nhau; chủ thể quản lý nảy sinh các động lực quản lý, còn khách thể quản lý thì làm nảy sinh các giá trị vật chất và tinh thần, đáp ứng nhu cầu của con người, thoả mãn mục đích của chủ thể quản lý. Hoạt động quản lý được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1: Sơ đồ về hoạt động quản lý Công cụ quản lý Chủ thể quản lý Khách thể quản lý PP quản lý Mục tiêu quản lý Môi trường quản lý 1.2.2. Khái niệm về QLGD, quản lý nhà trường 1.2.2.1. Khái niệm QLGD Dựa vào khái niệm “Quản lý” một số nhà nghiên cứu về giáo dục đưa ra nhiều định nghĩa về QLGD, một số định nghĩa điển hình như sau: Học giả nổi tiếng M.I Kônđacôp: “QLGD là tập hợp những biện pháp tổ chức, cán bộ, kế hoạch hoá, tài chính cung tiêu v.v. nhằm đảm bảo vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng cả về mặt số lượng lẫn chất lượng” [40]. Theo P.V.Khuđôminxky: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hoà của họ” [45]. Theo Đặng Quốc Bảo: "QLGD theo nghĩa tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển KTXH. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở 9 thế hệ trẻ mà cho mọi người. Cho nên QLGD được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân" [4]. Theo Nguyễn Trọng Hậu: “QLGD là hệ thống những tác động có ý thức, hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [32, tr.65]. Theo Trần Kiểm: “QLGD là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự phát triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em” [34, tr.24]. 1.2.2.2. Quản lý nhà trường Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho một nhóm dân cư nhất định của xã hội đó. Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo kinh nghiệm xã hội nói trên đạt được các mục tiêu mà xã hội đó đặt ra cho nhóm dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm của xã hội” [5, tr.62]. Theo GS.VS. Phạm Minh Hạc thì: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục của Đảng để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, đối với thế hệ trẻ và đối với từng học sinh” [26, tr.373]. Trong tác phẩm Cơ sở lý luận của khoa học QLGD, M.I.Kônđacốp đã viết: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh, chúng ta hiểu quản lý nhà trường (công việc nhà trường) là một hệ thống xã hội-sư phạm chuyên biệt. Hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt xã hội-kinh tế, tổ chức-sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang trưởng thành” [40]. 10

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét