Thứ Năm, 7 tháng 4, 2016

Các giải pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục các trường Trung học phổ thông vùng khó khăn ở huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái

Chƣơng 2. Thực trạng của hoạt động dạy học và quản lí hoạt động dạy học ở các trƣờng trung học phổ thông vùng khó khăn ở huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái. Chƣơng 3. Các giải pháp quản lí hoạt động dạy học nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục các trƣờng trung học phổ thông vùng khó khăn ở huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC VÀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 1.1.1. Khái niệm quản lí Có nhiều cách tiếp cận khái niệm QL. Sau đây là một số cách tiếp cận: Tiếp cận trên phƣơng diện hoạt động của tổ chức, tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lí là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí đến tập thể những ngƣời lao động nói chung là khách thể quản lí nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến” [28,tr.24]. Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì: “Quản lí là tác động có định hƣớng, có chủ đích của chủ thể quản lí (ngƣời quản lí) đến khách thể quản lí (ngƣời bị quản lí) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt đƣợc mục đích của tổ chức” [6,tr.1]. Tác giả Nguyễn Minh Đạo định nghĩa: “Quản lí là tác động liên tục có tổ chức, có định hƣớng của chủ thể quản lí (ngƣời quản lí hay tổ chức quản lí) lên khách thể (đối tƣợng quản lí) về mặt chính trị, văn hoá xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phƣơng pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trƣờng và điều kiện cho sự phát triển của đối tƣợng” [11,tr.7]. Dựa vào “điều khiển học”, tác giả “Đại bách khoa toàn thƣ Liên Xô” định nghĩa: “Quản lí - đó là chức năng của những hệ thống có tổ chức với 5 bản chất khác nhau (sinh vật, xã hội, kĩ thuật) nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những chƣơng trình, mục đích hoạt động” [25,tr.5]. Theo cách tiếp cận của một số nhà khoa học quản lí ngƣời nƣớc ngoài: “Quản lí là thiết kế và duy trì một môi trƣờng mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm, có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định [15,tr.29]. Dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể hiểu: quản lí là cách thức tổ chức - điều khiển (cách thức tác động) của chủ thể quản lí đến khách thể quản lí nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu mà tổ chức đã đề ra. 1.1.2. Bản chất, chức năng quá trình quản lí 1.1.2.1. Bản chất của quản lí Là sự phối hợp các nỗ lực của con ngƣời thông qua việc thực hiện các chức năng quản lí, là tác động có mục đích đến tập thể ngƣời nhằm thực hiện mục tiêu quản lí. Trong giáo dục, đó là tác động của nhà QLGD đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lƣợng giáo dục khác nhau trong xã hội nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu QLGD. 1.1.2.2. Chức năng quản lí Là biểu hiện bản chất của quản lí. Chức năng quản lí là một phạm trù chiếm vị trí then chốt trong các phạm trù cơ bản của khoa học quản lí, là những loại hoạt động bộ phận tạo thành hoạt động quản lí đã đƣợc tách riêng, chuyên môn hoá: “Chức năng quản lí là những hình thái biểu hiện sự tác động có mục đích đến tập thể ngƣời” [36,tr.16]. Chức năng quản lý là các hoạt động xác định đƣợc chuyên môn hoá, nhờ đó chủ thể quản lý tác động vào đối tƣợng quản lý. Hay nói một cách khác, chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý đặc biệt thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm đạt đƣợc một mục tiêu nhất định. QL có bốn chức năng chính sau: - Chức năng kế hoạch hoá: 6 Kế hoạch hoá có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tƣơng lai của tổ chức và các con đƣờng , biện pháp, cách thức để đạt đƣợc mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá: (a) xác định, hình thành mục tiêu(phương hướng) đối với tổ chức: (b) xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, tính cam kết) về các nguồn lực của tổ chức để đạt được các mục tiêu này: (c) Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu đó. - Chức năng tổ chức: Khi ngƣời QL đã lập xong kế hoạch, họ cần phải chuyển hoá những ý tƣởng tƣơng đối trừu tƣợng dố thành hiện thực. Một tổ chức lành mạnh sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự chuyển hoá nhƣ thế. Xét về mặt chức năng QL, tổ chức hình thánh nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt đƣợc mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả, ngƣời QL có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và nhân lực. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc nhiều vào năng lực của ngƣời QL sử dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả và có kết quả. - Chức năng lãnh đạo (chỉ đạo): Sau khi kế hoạch đã đƣợc lập, cơ cấu bộ máy đã hình thành, nhân sự đã đƣợc tuyển dụng thì phải có ngƣời đứng ra lãnh đạo, dẫn dắt tổ chức. Lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với ngƣời khác và động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt đƣợc mục tiêu của tổ chức. Hiển nhiên việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã hoàn tất, mà nó thấm vào, ảnh hƣởng quyết định tới hai chức năng kia. - Chức năng kiểm tra: 7 Kiểm tra là một chức năng quản lý, thông qua đó một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Một kết quả hoạt động phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tƣơng ứng thì phải tiến hành những hành động điều chỉnh, uốn nắn. Đó cũng là quá trình tự điều chỉnh, nó diễn ra có tính chu kỳ nhƣ sau: + Ngƣời quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hoạt động. + Ngƣời quản lý đối chiếu, đo lƣờng kết quả, sự thành đạt so với chuẩn mực đã đề ra. + Ngƣời QL tiến hành điều chỉnh những sai lệch. + Ngƣời QL hiệu chỉnh, sửa lại chuẩn mực nếu cần. Các chức năng chính của hoạt động QL luôn đƣợc thực hiện liên tiếp, đan xen vào nhau, phối hợp và bổ sung cho nhau tạo thành chu trình quản lý. Trong chu trình này, yếu tố thông tin luôn có mặt trong tất cả các giai đoạn, nó vừa là điều kiện , vừa là phƣơng tiện không thể thiếu đƣợc khi thực hiện chức năng quản lý và ra quyết định quản lý. Mối liên hệ này thể hiện qua sơ đồ sau: Kế hoạch Kiểm tra, đánh giá Thông tin Chỉ đạo 8 Tổ chức Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa các chức năng quản lí. 1.1.2.3. Quá trình quản lí trường học Cũng giống nhƣ bất kì một quá trình QL nào, quá trình QL trƣờng học gồm bốn chức năng cơ bản là: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đƣợc thực hiện liên tiếp đan xen phối hợp bổ sung cho nhau. 1.1.3. Giải pháp quản lí Là phƣơng pháp (hệ thống các cách) đƣợc sử dụng để tiến hành giải quyết những công việc cụ thể của công tác quản lí nhằm đạt đƣợc mục tiêu quản lí [35,tr.727]. 1.1.4. Quản lí giáo dục, quản lí trường học 1.1.4.1. Quản lí giáo dục Quản lí giáo dục (QLGD) là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể QL (hệ giáo dục nhằm làm cho hệ vận hành theo đƣờng lối và nguyên lí giáo dục của Đảng, thực hiện đƣợc các tính chất của nhà trƣờng XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình DH – GD thế hệ trẻ, đƣa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [28,tr.35]. M.M Mechti-Zach – Nhà lí luận Liên Xô - viết về QLGD định nghĩa: “Quản lí giáo dục là tập hợp những biện pháp tổ chức, phƣơng pháp, cán bộ, giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính…nhằm đảm bảo sự vận hành bình thƣờng của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lƣợng cũng nhƣ chất lƣợng”. Nhƣ vậy chúng ta có thể hiểu QLGD là: - Hệ thống tác động có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể quản lí (ở các cấp quản lí) đến đối tƣợng quản lí. - Chuỗi tác động mang tính tổ chức – sƣ phạm của chủ thể quản lí. - QLGD tác động lên tập thể giáo viên – học sinh và các lực lƣợng giáo dục trong và ngoài nhà trƣờng nhằm huy động họ cùng phối hợp, tác 9 động, tham gia vào mọi hoạt động của nhà trƣờng để đạt đƣợc mục tiêu dự kiến. Do đó, khi QL nhà trƣờng, ngƣời hiệu trƣởng ngoài việc QL thầy và trò nhà trƣờng, còn phải phối kết hợp với các đoàn thể, tổ chức xã hội, cá nhân ngoài nhà trƣờng để góp phần làm cho chất lƣợng giáo dục của nhà trƣờng ngày một nâng cao. 1.1.4.2. Quản lí nhà trường Trƣờng học là một tổ chức giáo dục cơ sở, trực tiếp làm công tác giáo dục thế hệ trẻ, là tế bào của bất cứ hệ thống giáo dục ở cấp nào (từ cơ sở đến Trung ƣơng). Chất lƣợng của GD là do thành tích đích thực của nhà trƣờng tạo nên. Bởi vậy, khi nói đến QLGD phải nói đến quản lí nhà trƣờng (cùng với hệ thống QLGD). Theo Giáo sƣ – Viện sĩ Phạm Minh Hạc: “Quản lí nhà trƣờng là thực hiện đƣờng lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đƣa nhà trƣờng vận hành theo nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [16,tr.256]. “Việc quản lí nhà trƣờng phổ thông (có thể mở rộng ra là quản lí nói chung) là việc quản lí dạy – học tức là làm sao đƣa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tới mục tiêu giáo dục” [16,tr.71]. Theo tác giả Bùi Trọng Tuân thì QL nhà trƣờng bao gồm quản lí bên trong nhà trƣờng (nghĩa là quản lí từng thành tố: mục đích giáo dục - đào tạo, nội dung giáo dục - đào tạo, phƣơng pháp và hình thức tổ chức dạy học, đội ngũ giáo viên và CBCNV, tập thể học sinh và cơ sở vật chất – thiết bị dạy học, các thành tố này quan hệ qua lại lẫn nhau và tất cả đều thực hiện chức năng giáo dục - đào tạo) và quản lí các mối quan hệ giữa nhà trƣờng với môi trƣờng xã hội bên ngoài. Nhƣ vậy, quản lí nhà trƣờng là tập hợp các tác động tối ƣu của chủ thể quản lí (thông qua việc thực hiện các chức năng quản lí) đến tập thể giáo viên, CBCNV và học sinh nhằm sử dụng hợp lí nguồn lực do nhà nƣớc đầu tƣ, do các lực lƣợng xã hội đóng góp và do chính nhà trƣờng tạo 10

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét