Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2016
Giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên ở trường Cao đẳng Tài chính - Quản trị kinh doanh nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của nhà trường trong giai đoạn hiện nay
hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Với thời
gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất”. (37, tr.33)
Henry Fayol là người đầu tiên chỉ ra chức năng quản lý gồm :“Dự
đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra”.(13, tr.15)
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang :“Quản lý là tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu
dự kiến”.(32,tr.15)
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng :
“Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm cho tổ chức vận
hành và đạt được mục đích của tổ chức”.(13, tr.1)
Như vậy dấu hiệu bản chất nhất của quản lý chính là sự tác động có
tổ chức, có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý tới khách thể quản
lý để nhằm đạt mục tiêu. Vì thế, quản lý vừa là một khoa học vừa là một
nghệ thuật. Nó mang tính khoa học là vì các hoạt động quản lý có tổ chức,
có định hướng đều dựa trên nhũng quy luật, những nguyên tắc và phương
pháp hoạt động cụ thể, đồng thời cũng mang tính nghệ thuật vì nó cần được
vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể, trong sự kết hợp và tác
động nhiều mặt của yếu tố khác nhau trong đời sống xã hội .
Trong lao động quản lý chủ thể tác động vào khách thể thông qua
một hệ thống các hoạt động xác định. Các hoạt động đó được chuyên môn
hoá gọi là chức năng quản lý. Khi xác định chức năng quản lý có nhiều
cách trình bày khác nhau. Tuy nhiên, được thống nhất ở bốn chức cơ bản
sau:
- Lập kế hoạch : Xác định mục tiêu nội dung, biện pháp, thời gian
và các điều kiện đảm bảo tính khả thi của kế hoạch. Kế hoạch là nền tảng
của công tác quản lý.
- Tổ chức : Xác định các mối quan hệ, tính chất và cách thức từ đó
và sắp xếp bố trí con người, nguồn lực cho công việc. Đây là chức năng
11
quan trọng nhất của quản lý vì nó phản ánh toàn bộ nội dung, mục tiêu
quản lý. Nhờ tổ chức có hiệu quả, có khoa học, người quản lý có thể phối
hợp, điều phối tốt hơn các nguồn nhân lực.
- Chỉ đạo : Chỉ đạo thực chất là hoạt động dẫn dắt, điều khiển của
người quản lý đối với các hoạt động và các thành viên của tổ chức để đạt
được mục tiêu quản lý. Hoạt động nảy sinh từ khi xây dựng mục tiêu, đến
quá trình lập kế hoạch, tổ chức nhân sự, kiểm tra và đánh giá kết quả. Chỉ
đạo là hoạt động thường xuyên mang tính kế thừa, phát triển
- Kiểm tra là quá trình đo lường, đánh giá kết quả tìm ra ưu điểm,
khuyết điểm để sữa chữa, điều chỉnh trong việc tổ chức thực hiện mục tiêu
đề ra. Quản lý mà không có kiểm tra không gọi là quản lý. Kiểm tra chính
là sự thiết lập mối quan hệ ngược trong quản lý. Kiểm tra bao gồm yếu tố
cơ bản sau đây : xem xét, thu thập thông tin ngược, đánh giá việc thực hiện
công việc theo chuẩn, nếu có sự sai lệch thì phải điều chỉnh uốn nắn.
Trên thực tế, các chức năng trên diễn ra tuần hoàn theo một chu
trình với tính logic chặt chẽ. Tuy nhiên các chức năng kế tiếp và độc lập
với nhau chỉ là tuơng đối, tuỳ theo nội dung, thời điểm mà một số chức
năng có thể tiến hành đồng thời, đan xen với nhau.
1.1.1.2. Quản lý giáo dục:
Giáo dục là một chức năng của Xã hội loài người được thực hiện
một cách tự giác, vượt qua hoạt động “tập tính” của các loài động vật.
Cũng như mọi hoạt động của Xã hội loài người, giáo dục cũng được quản
lý trên bình diện thực tiễn ngay từ khi hoạt động giáo dục có tổ chức mới
hình thành. Bản thân sự giáo dục được tổ chức và có mục đích đã là một
thực tiễn quản lý giáo dục sống động.
Nhà sư phạm lỗi lạc Cômenxki (1592- 1670) khi đặt nền móng
cho hệ thống các nhà trường – một tài sản quý báu cho đến nay, đã tạo cơ
sở ra đời của vấn đề quan trọng hàng đầu của quản lý giáo dục là “tổ chức
hệ thống giáo dục” trên quy mô toàn Xã hội. Cômexinki đã đề xuất một hệ
12
thống các trường học dành cho các lưá tuổi khác nhau. Uxin-xki (18241870), nhà sư phạm vĩ đại người Nga, những quan điểm giáo dục dân chủ,
dân tộc và nhân dân của ông rất gần gũi với các quản điểm quản lý giáo
dục được phát triển trong thế kỷ XX.
Đầu những năm 50 của thế kỷ XX, trong hàng loạt những công
trình nghiên cứu có tính hàn lâm của các nhà khoa học Liên xô (cũ), đã
xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về những vấn đề khác nhau của quản
lý giáo dục. Năm 1956, lần đầu tiên xuát hiện cuốn “quản lý trường học”
của A.Pôpốp một nhà sư phạm và quản lý giáo dục của Liên xô cũ. Đây
không phải là một công trình nghiên cứu mà mang tính chỉ dẫn cho hoạt
động thực tiễn đối với người làm công tác giáo dục. Trong thời gian gần
đây, tài liệu, sách báo, tạp chí đựơc xuất bản rất nhiều. Điển hình là các
công trình”Nghề hiệu trưởng-một triển vọng thực tiễn được phản ánh của
Thomas J. Seriovanni (1995); “Quản lý giáo dục – Lý thuyết, nghiên cứu
và thực tiễn” của Wayne K.hoy, Cecil G.Mískel (1996).
Theo ba tác giả M.I KondaKep, ML. Ponop và P.V Hudomixki;
“Quản lý khoa học trong hệ thống giáo dục có thể xác định như là tác động
có hệ thống, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống: từ Bộ Giáo dục đến các trường,
các cơ sở giáo dục khác nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục chủ nghĩa
cho các thế hệ trẻ, trên cơ sở nhận thức và quy luật của quá trình giáo dục,
của sự phát triển thể lực, tâm lý trẻ, thiếu niên và thanh niên.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống
tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm
làm cho hệ điều hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện được các tinh chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội
tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ đến mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về vật chất”.(33, tr. 12)
13
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục đạt tới mục đích đã định.
Quan hệ trong quản lý giáo dục là quan hệ giữa người quản lý với người
dạy và người học trong các hoạt động giáo dục.
Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc : “quản
lý giáo dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm
đẩy mạnh công tác đào tạo các thế hệ trẻ đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội
ngày một cao”.(17, tr. 14)
Như vậy, khái niệm quản lý giáo dục ở nước ta hiện nay được mở
rộng không chỉ đơn thuần là các hoạt động quản lý ngành giáo dục đào tạo
mà là các hoạt động phối hợp của toàn xã hội nhằm phát triển giáo dục đào
tạo mà là các hoạt động phối hợp của toàn xã hội nhằm phát triển giáo dụcđào tạo thực hiện lời Bác dạy “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”.
1.1.2. Giảng viên, đội ngũ giảng viên, chất lượng giảng viên
1.1.2.1. Giảng viên:
Theo điều 61 Luật giáo dục nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được quốc hội thông qua ngày 02 tháng 12 năm 1998:
- “Nhà giáo là người làm nhiệm cụ giảng dạy, giáo dục trong nhà
trường hoặc các cơ sở giáo dục khác”.
- “Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên: ở cơ sở giáo dục đại hợc và sau đại
học gọi là giảng viên.”
Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
+ Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt.
+ Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp.
+ Lý lịch bản thân rõ ràng.
14
Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp gọi là giáo viên ; giáo dục đại học, sau đại học gọi là
giảng viên.
Như vậy, giảng viên là những nhà giáo làm công tác giảng dạy
trong các trường đại học, cao đẳng. Họ không chỉ có trách nhiệm truyền
thụ kiến thức khoa học, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho sinh viên mà họ
còn là những người “dạy cho học sinh, sinh viên cách học và cách đưa ra
sáng kiến trong công việc”; xây dựng nhân cách cho sinh viên nhằm đạt
được mục tiêu giáo dục là “Đào tạo con người VIệt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH”.
Điều 14 luật giáo dục về vai trò nhà giáo “nhà giáo có vai trò quyết
định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng
học tập, rèn luyện, nêu gương tốt cho người học”.
Hiện nay, trong bối cảnh đổi mới giáo dục để đáp ứng những biến
đổi to lớn không ngừng xảy ra trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật,
văn hoá và xã hội thì yêu cầu đối với nhà giáo ngày càng cao. Cụ thể yêu
cầu nhà giáo phải có những phẩm chất, năng lực sau:
* Phẩm chất đạo đức tốt:
Phẩm chất hàng đầu của nhà giáo là lòng yêu nước, giác ngộ xã hội
chủ nghĩa với lý tưởng nghề nghiệp. Phẩm chất này thể hiện đậm nét ở
niềm tin cách mạng trong sáng và cao thượng.Tình cảm này xuất phát từ
lòng yêu nước, lý tưởng cách mạng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ và văn minh”. Tình cảm này thể hiện ở lòng yêu nghề, hứng
thú và có nhu cầu làm việc với thế hệ trẻ, có trách nhiệm trước những lệch
lạc hoặc chậm phát triển của học sinh, có tính kiên trì, thái độ kiềm chế và
chủ động trong cách đối xử với học sinh, nếp sống giản dị, khiêm tốn, lịch
sự.
* Yêu cầu về trình độ chuyên môn :
15
Trong công tác đào tạo, đội ngũ những nhà giáo giữ vai trò có tính
quyết định đối với chất lượng và hiệu quả đào tạo bởi lẽ:
+ Trước hết họ là những người thầy và mặc dù không phải là
nguồn kiến thức chủ yếu, độc tôn đối với người học xong nhiệm vụ quan
trọng của họ là cung cấp những kiến thức một cách chính xác, có hệ thống
đồng thời giúp người học biết cách tự đọc, biết cách nghiên cứu khoa học,
tổng kết rút kinh nghiệm để hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
+ Trình độ chuyên môn của thầy phải giỏi có chuyên môn sâu, có
bằng cấp đạt tiêu chuẩn có khả năng trả lời những câu hỏi của người học
trò ít nhất về vấn đề chuyên môn mình phụ trách và luôn quan tâm đổi mới,
lựa chọn nội dung - chương trình phù hợp với mục tiêu đào tạo.
* Yêu cầu nghiệp vụ sư phạm:
Đội ngũ nhà giáo chỉ có chuyên môn thì chưa đủ mà năng lực của
nhà giáo còn thể hiện ở trình độ sư phạm. Trình độ sư phạm là trình độ
nghề nghiệp hoạt động cao của những nhà giáo, đó là sự thể hiện độc đáo
không chỉ những tri thức kỹ năng, kỹ xảo mà của cả những quá trình, trạng
thái và thuộc tính tâm lý nhân cách được phát triển phù hợp với các yêu
cầu hoạt động nghề nghiệp. Như vầy muốn có chất lượng dạy tốt thì nhà
giáo phải có trình độ sư phạm tốt, phải có một hệ thống tri thức giỏi về
chuyên môn, phải nắm được một hệ thống kỹ năng kỹ xảo nhất định, phải
rèn luyện được những phẩm chất nhân cách đặc trưng cho nghề dạy học.
Điều kiện để hình thành trình độ sư phạm là nhà giáo giảng dạy phải biết
tích luỹ tri thức khoa học ở trình độ cao, phải biết nghiên cứu khoa học,
phải tham gia tích cực vào hoạt động dạy học để tích luỹ kinh nghiệm và
phát huy sáng tạo trong việc giải quyết các nhiệm vụ dạy học.
1.1.2.2. Đội ngũ giảng viên:
16
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét