Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2016

Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn

7. Phƣơng pháp nghiên cứu 7.1 Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập tài liệu, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và so sánh, khái quát hoá các tư liệu, tài liệu, các văn bản có liên quan đến đề tài. 7.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, điều tra, phỏng vấn, quan sát, thu thập và xử lý thông tin, tổng kết kinh nghiệm, v.v… nhằm phân tích và đánh giá những số liệu, thông tin thuộc phạm vi nghiên cứu; đồng thời tiến hành khảo sát để khẳng định tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất. 7.3. Phƣơng pháp bổ trợ: Thống kê và phân tích để xử lý các thông tin thu thập nhằm thiết lập các biểu, bảng. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, ký hiệu viết tắt và phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Anh ở trường THPT Chƣơng 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Anh tại các trường THPT của huyện Bắc Sơn - Lạng Sơn. Chƣơng 3: Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Anh ở các trường THPT huyện Bắc Sơn - Lạng Sơn. 4 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Đã từ lâu, giáo dục luôn thể hiện vai trò quan trọng, có tính chất quyết định đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia và nền văn minh của cả nhân loại. Chính vì vậy giáo dục luôn dành được sự quan tâm của các cấp QL và toàn xã hội. Ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục đã được cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương và các chính sách cấp nhà nước. Nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII “Về định hướng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000”đã nhấn mạnh: "GD&ĐT hiện nay phải có một bước chuyển nhanh chóng về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường, nhằm nhanh chóng đưa GD&ĐT đáp ứng yêu cầu mới của đất nước. Thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước" [5]. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX cũng khẳng định: "Tiếp tục nâng cao chất lượng GD toàn diện, đổi mới nội dung, PPDH, hệ thống trường lớp và hệ thống QLGD, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá" [4]. Trong bối cảnh tri thức đã được coi là nguồn lực có tính chất then chốt đối với sự tăng trưởng của mỗi nền kinh tế, cả xã hội đều nhận thấy giáo dục và QLGD là yếu tố cơ sở để phát triển đất nước. Trong các trường học, muốn nâng cao chất lượng dạy học đòi hỏi người hiệu trưởng phải biết xây dựng, vận dụng các biện pháp QL một cách phù hợp, khoa học vì chủ yếu công việc QL của người hiệu trưởng là QL hoạt động dạy học trong nhà trường, làm sao để nâng cao được hiệu quả và chất lượng giáo dục. 5 Trong thời gian qua, nhiều nhà khoa học đã đầu tư công sức, trí tuệ và tiền của vào công việc nghiên cứu HĐDH và biện pháp QL HĐDH. Các đề tài nghiên cứu cũng hết sức đa dạng, chủ yếu các tác giả tập trung nghiên cứu về mặt lý luận như: các chức năng của QLGD; chức năng, phẩm chất, tiêu chuẩn của người QLGD; vai trò, công việc cuả người hiệu trưởng và đội ngũ cán bộ QLGD trong nhà trường ... Có thể kể tên một số tác giả tiêu biểu như: Nguyễn Văn Lê, Hồ Sĩ Thế, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Bá Lãm, …. Quản lý giáo dục và nâng cao chất lượng dạy học trong các trường học là một vấn đề rất cần thiết và được nhiều người quan tâm. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, các nhà nghiên cứu đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau và bình diện khác nhau để tìm ra các biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhưng đều mục đích chung là nâng cao chất lượng dạy và học trong các nhà trường. Đến nay đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn nghiên cứu về đề tài “nâng cao chất lượng dạy học”, trong có có các đề tài nghiên cứu về “nâng cao chất lượng dạy học” các môn học ở giáo dục THPT. Một số luận văn về “nâng cao chất lượng dạy học” ở THPT như: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng các trường THPT huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang của Đỗ Thị Kim Thoa, 2006; Những biện pháp quản lý dạy học môn Vật lí của Hiệu trưởng Trường THPT tỉnh Long An theo yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông của Nguyễn Thị Ngọc Điệp, 2007; Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động dạy học môn Toán THPT phân ban của Nguyễn Văn Nguyên, 2007; Một số giải pháp quản lý hoạt động dạy học môn Vật lý ở trường THPT huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa của Nguyễn Đình Điền, 2008; Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn Thể dục ở trường THCS thành phố Tam Kì, tỉnh Quảng Nam của Nguyễn Thị Thuận, 2010; Giải pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa của Đặng 6 Quang Thanh, 2010; v.v… Song đối với môn Tiếng Anh ở các trường THPT huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn thì chưa có đề tài nào được nghiên cứu. 1.2. Một số khái niệm cơ bản: 1.2.1. Quản lý, chức năng quản lý 1.2.1.1. Khái niệm Quản lý QL xuất hiện, phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Đây là một trong những loại hình lao động lâu đời và quan trọng nhất của con người, là công vệc cần thiết trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, có tính chất quyết định đến sự phát triển của toàn xã hội. Song chỉ những năm gần đây người ta mới thừa nhận tính chất khoa học của nó và QL mới được coi là một ngành khoa học theo đúng nghĩa. Bất kì một tổ chức, một tập thể nào cũng đều có yếu tố QL trong đó và điều đó quyết định tới hiệu qủa hoạt động của tổ chức theo mục tiêu đề ra. Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về QL tùy theo quan điểm và cách tiếp cận. Có người cho rằng QL là sự chỉ huy, lãnh đạo, sự cai quản, sự điều khiển, điều chỉnh… Tuy nhiên có thể nêu lên một số quan điểm có tính chất cốt lõi của một số tác giả như sau: K.Marx cho rằng: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [25]. Như vậy bản chất của QL là một hoạt động lao động có tính tất yếu, vô cùng quan trọng trong quá trình lao động, phát triển của loài người. Henry Fayol (1841 – 1925) nhấn mạnh: QL là một hệ thống phát huy tác dụng có tính chất độc lập không thể thay thế. Theo ông: “quản lý là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra” [24, tr.17] 7 Mary ParKer Follett (1868 - 1933) nổi tiếng với thuyết hành vi trong quản lý cho rằng: “Quản lý là một quá trình lao động, liên tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại” [24, tr.24]. Tác giả H. Koontz cũng nhấn mạnh: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm (tổ chức). Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [22, tr.33]. Các tác giả Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về khoa học QL và thể hiện nhiều quan điểm về vấn đề này như sau: Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý là sự tác động có mục đích tới tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và mục đích đã định trước” [27, tr.33]. Theo tác giả Nguyễn Văn Lê: “Quản lý với tư cách là một hệ thống xã hội, là khoa học và nghệ thuật tác động vào từng thành tố của hệ bằng các phương pháp thích hợp, nhằm đạt các mục tiêu đề ra cho hệ và cho từng thành tố của hệ” [23, tr.28]. Tác giả Phạm Văn Kha khẳng định: “Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã định” [20, tr.6]. Theo các tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ thì: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [19, tr.17]. Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì hoạt động quản lý là: “tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý 8 (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) – trong một tổ chức – nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [10, tr.1]. Còn tác giả Đặng Quốc Bảo thì khẳng định : Bản chất của hoạt động QL nhằm làm cho hệ thống vận hành theo mục tiêu đặt ra và tiến đến các trạng thái có tính chất lượng mới”.[6] Quản lý = Quản + Lý Trong đó : - Quản là chăm sóc, giữ gìn sự ổn định . - Lý là sửa sang, sắp xếp, đổi mới phát triển. Hệ ổn định mà không phát triển thì tất yếu dẫn đến suy thoái. Hệ phát triển mà không ổn định tất yếu dẫn đến rối ren. Vậy: Quản lý = ổn định + phát triển Theo từ điển tiếng việt thì QL là hoạt động của con người tác động vào tập thể người khác để phối hợp, điều chỉnh, phân công thực hiện mục tiêu chung. Từ rất nhiều quan điểm khác nhau nêu trên, chúng ta có thể hiểu khái quát về QL như sau: QL là sự tác động, chỉ huy điều khiển hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, nhằm đạt được mục đích đề ra. Sự tác động của QL bằng cách nào đó để người bị QL luôn tự giác, phấn khởi đem hết năng lực, trí tuệ của mình tạo nên lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cả xã hội. Khái niệm QL bao hàm những khía cạnh sau: Đối tượng tác động của QL là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như một cơ thể sống gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất định, tồn tại trong không gian, thời gian cụ thể. Hệ thống QL gồm hai phân hệ: Chủ thể QL và khách thể QL, giữa chúng có sự tác động tương hỗ, biện chứng với nhau. QL bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định. Tác động quản lí thường mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều phương pháp khác nhau. 9

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét